* Bạn tham khảo bài viết dưới đây nhé!
I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về đoạn ba bài thơ "Tây Tiến"
2, Thân bài
a, Bốn câu thơ đầu: vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của người chiến sĩ Tây Tiến
b, Bốn câu thơ cuối: nỗi nhớ về sự hi sinh của người lính Tây Tiến của tác giả Quang Dũng
3, Kết bài
- Tình cảm của em dành cho đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung
II, Bài văn tham khảo
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những người anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kì lịch sử. Và “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp của dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn ba của bài thơ.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ “Tây Tiến”.
Đoạn thơ tô đậm vẻ đẹp độc đáo ở người lính Tây Tiến - vẻ đẹp bi tráng, lãng mạn và hào hoa. Trước hết là hai câu thơ đầu, Quang Dũng đã tập trung miêu tả dáng vẻ đầy bi tráng của những người lính Tây Tiến :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Ra đi trong những ngày đầu của kháng chiến, những người lính Tây Tiến nói riêng và những anh bộ đội cụ Hồ nói chung phải chịu rất nhiều thiếu thốn về vật chất, lại phải hành quân suốt những đêm dài. Vì vậy, các anh thường bị mắc phải căn bệnh sốt rét nơi rừng thiêng nước độc. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều vần thơ ghi lại hiện thực đời sống chiến đấu của những người lính:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(Đồng chí – Chính Hữu)
Nhưng có lẽ chưa có vần thơ nào mà ấn tượng như vần thơ Quang Dũng với những hình ảnh độc đáo “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Theo lời kể của tác giả thời kì đó bộ đội ta phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà và để dẽ dàng trong sinh hoạt. Nhưng nguyên do quan trọng hơn cả chính là hậu quả của những ngày hành quân vất vả, đói rét và những cơn sốt rét rừng. Hình ảnh “xanh màu lá” là một hình ảnh thơ gợi nhiều sự liên tưởng. Đó có thể là làn da xanh vàng vọt của người lính, đó cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang, của cánh rừng bạt ngàn.
Nhưng ẩn đằng sau cái tiều tụy bi thương là sự lẫm liệt mà ngang tàng của người lính Tây Tiến. Âm Hán Việt “đoàn binh” (không phải là “đoàn quân”) vừa tạo ra màu sắc trang trọng cho câu thơ, vừa gợi ra sự đông đúc, hào hùng vừa gợi ra sự uy nghi, lẫm liệt tựa như những tráng sĩ thuở xưa. Bi tráng còn ở cách diễn đạt độc đáo “không mọc tóc” của Quang Dũng giúp cho người đọc hình dung được tóc của người lính dường như không thèm mọc. Cái trạng thái bị động đã chuyển sang trạng thái chủ động. Vì thế mà cảm nhận được cái ngang tàng, ngạo nghễ như thách thức với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật. Hào hùng còn là ở cụm từ “dữ oai hùm”. Cảm giác như người lính Tây Tiến hiện lên với sự dữ dội, oai linh, uy nghi tựa như một chúa tể sơn lâm. Đọc ý thơ của Quang Dũng làm ta nhớ đến câu thơ của Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
Dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, người lính Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp bi tráng mà còn có vẻ đẹp lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
“Mắt trừng” là ánh mắt tha thiết gửi trao những giấc mộng về quê nhà từ bên kia biên giới xa xôi, đó cũng có thể là ánh mắt đau đáu, một ý chí sắt đá, một quyết tâm kiên cường, một khát vọng chiến thắng mãnh liệt của người lính Tây Tiến. Và có lẽ, câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” đã thể hiện rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn của người lính. Những người lính Tây Tiến dù phải sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, giữa bom rơi đạn nổ, họ vẫn hướng về Hà Nội, vẫn hướng về những cô gái Hà thành duyên dáng, yêu kiều. Dường như đây là hướng về những nơi bình yên nhất, kí ức đẹp đẽ nhất về quê hương, bản quán. Đây là một câu thơ đẹp, nó tương đồng về cả hai vẻ mộng và mơ, nghĩa chung và tình riêng để tạo nên một vẻ đẹp riêng biệt độc đáo của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ hiện lên có ý chí chiến đấu, lòng quả cảm mà còn hiện lên hào hoa, lãng mạn nghệ sĩ. Đọc đến đây ta lại nhớ đến ý thơ của Chính Hữu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Đây không phải là những câu thơ yếu đuối, mộng rớt hay tiểu tư sản mà nó toát lên một hào khí, một tinh thần mạnh mẽ, dám sống và dám yêu.
Nhớ về người lính, Quang Dũng nhớ về những hi sinh vừa chân thực, vừa cao cả:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường ra đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Khi viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, không có nhà thơ nói về sự hi sinh đẫm máu của những người lính nhưng Quang Dũng không hề né tránh hi sinh thậm chí là cả hi sinh khốc liệt: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Từ láy “rải rác” kết hợp cùng nghệ thuật đảo ngữ đã nhấn mạnh tính khắc nghiệt của cuộc chiến tranh. Hơn nữa, nhà thơ còn sử dụng các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” vừa gợi ra sự trang trọng cho câu thơ vừa nhấn mạnh hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Đó là những người lính phải nằm lại ở nơi biên cương xa xôi, héo lánh, hoang lạnh. Sự ra đi ấy rất đơn độc. Quang Dũng nói về cái chết, nhưng đó lại là sự hi sinh cao cả và đẹp đẽ: “Chiến trường ra đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là bao ước vọng đang đón chờ mỗi người phía trước. “Chiến trường” khốc liệt mà câu thơ nghe sao bình tĩnh quá, có chút ngạo nghễ khinh đời để rồi hai từ “ chẳng tiếc” mang vẻ bất cần cho “ đời xanh”. Tuổi trẻ ai chẳng cần cho mình khát vọng tình yêu, thanh xuân thơ mộng. Người lính Tây Tiến hiểu lắm, biết lắm vẻ đẹp của “đời xanh” nhưng chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng thiêng liêng. Đó chính là vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại nên những người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, vì vậy sự hi sinh của họ được hình dung trong tư thế của những chiến binh anh hùng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Quang Dũng đã sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ từng trải lòng về câu thơ trên “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là nói theo cách của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Sự khắc nghiệt của chiến trường, sự khó khăn gian khổ trong chiến đấu, vậy mà khi ngã xuống câu thơ sao mà nghe nhẹ nhàng đến vậy. Không phải là ngã xuống, không phải là chết mà đơn giản là “anh về đất”. Mỗi chúng ta ai chẳng sinh ra từ đất mẹ Xi –ta, ai chẳng từ luống cày mà lớn lên. Vậy nên giờ đây các anh chỉ là đang ngủ một giấc thật dài, thật bình yên bên đất mẹ dịu dàng và ấm áp. Câu thơ với biện pháp nói giảm nói tránh đã tạo cho câu thơ bi mà không lụy ý, thơ mang đến một cảm giác vĩnh hằng, là thế giới của:
“Những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(Nguyễn Đình Thi)
Khép lại đoạn thơ là hình ảnh "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Địa danh sông Mã được lặp lạitạo nên một kết cấu trùng lặp. Sông Mã gắn bó với từng chặng đường hành quânvà có mặt ngay cả trong giờ khắc người lính hi sinh. Bên cạnh đó, nghệ thuật nhân hoá kếthợp động từ mạnh trong ý thơ "gầm lên khúc độc hành" vừa tái hiện cảm xúc đau đớn, giận dữ của dòng sông Mã trước sự ra đi của người lính Tây Tiến. Dường như sông Mã thay lời đất nước cất lên lời tiễn biệt với người lính. Nói đến đây ta lại nhớ đến một nhận xét khá tinh tế của nhà thơ Vũ Quần Phương khi cho rằng cái âm vang của sông Mã chính là âm vang rung chuyển và ngự trị cả một vùng thiên nhiên đất trời được sinh ra từ những mất mát câm lặng của con người.
Khép lại bài thơ, âm hưởng bi tráng, hào hùng và lãng mạn đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Quang Dũng quả thực đã vô cùng thành công về đề tài viết về người lính khi sáng tác xong bài thơ Tây Tiến. Dư âm nỗi nhớ vẫn loang loang đâu đây, là tiếng gọi trìu mến của quá khứ, về một thời Tây Tiến oanh liệt.