RỪNG XÀ NU
(Nguyễn Trung Thành)
Giới thiệu chung:
Tác giả:
Ông là một nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về cuộc sống của các đồng bào Tây Nguyên.
Ở ông, ông có một tình yêu mãnh liệt đối với mãnh đất Tây Nguyên, có một sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của những người dân nơi đây. Tiêu biểu là tác phẩm “Rừng xà nu”.
Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1965 được in trong tập truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
Tác phẩm được viết trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ diễn ra một cách ác liệt nhất. Lúc bấy giờ nhân dân cả nước đang sôi sục chống Mĩ.
Tìm hiểu văn bản:
Hình tượng cây xà nu: Đây là một loại cây đặc trưng cho vùng đất Tây Nguyên. Đây còn là hình tượng xuyên suốt tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình tượng “những đồi xà nu chạy tít đến chân trời” nhằm tạo nên khung cảnh, làm nền cho câu chuyện. Đây cũng là hình ảnh tượng trưng được Nguyễn Trung Thành xây dựng thành công qua hai ý nghĩa:
Ý nghĩa tả thực của cây xà nu:
Xà nu là một loại cây họ thông, có nhựa thơm, có sức sống dẻo dai, bền bỉ, gắn bó với vùng đất và con người Tây Nguyên.
Cây xà nu xuất hiện dày đặc, gần gũi, quen thuộc trong những sinh hoạt hằng ngày của dân làng Xô Man:
+ Lửa xà nu “cháy giần giật” trong mỗi bếp nhà, trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp dân làng.
+ Khói xà nu dùng để xông bảng nứa để Mai và Tnú học chữ
+ Nhựa xà nu còn dùng để làm đuốc.
+ Rừng xà nu còn chứng kiến mối tình của Tnú và Mai.
Nó còn xuất hiện trong những sự kiện trọng đại của dân làng:
+ Đuốc xà nu sáng rực trong đêm Tnú về làng ở nhà ưng.
+ Giặc đố
HYPERLINK "http://www.cuasovanhoc.com" www.cuasovanhoc.com FB Group: Học Tốt Văn GV: Trần Thị Thu Hằng
Bản quyền thuộc HYPERLINK "http://www.cuasovanhoc.com" www.cuasovanhoc.com , mọi hình thức in ấn vui lòng ghi rõ nguồn.
RỪNG XÀ NU
(Nguyễn Trung Thành)
Giới thiệu chung:
Tác giả:
Ông là một nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về cuộc sống của các đồng bào Tây Nguyên.
Ở ông, ông có một tình yêu mãnh liệt đối với mãnh đất Tây Nguyên, có một sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của những người dân nơi đây. Tiêu biểu là tác phẩm “Rừng xà nu”.
Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1965 được in trong tập truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
Tác phẩm được viết trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ diễn ra một cách ác liệt nhất. Lúc bấy giờ nhân dân cả nước đang sôi sục chống Mĩ.
Tìm hiểu văn bản:
Hình tượng cây xà nu: Đây là một loại cây đặc trưng cho vùng đất Tây Nguyên. Đây còn là hình tượng xuyên suốt tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình tượng “những đồi xà nu chạy tít đến chân trời” nhằm tạo nên khung cảnh, làm nền cho câu chuyện. Đây cũng là hình ảnh tượng trưng được Nguyễn Trung Thành xây dựng thành công qua hai ý nghĩa:
Ý nghĩa tả thực của cây xà nu:
Xà nu là một loại cây họ thông, có nhựa thơm, có sức sống dẻo dai, bền bỉ, gắn bó với vùng đất và con người Tây Nguyên.
Cây xà nu xuất hiện dày đặc, gần gũi, quen thuộc trong những sinh hoạt hằng ngày của dân làng Xô Man:
+ Lửa xà nu “cháy giần giật” trong mỗi bếp nhà, trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp dân làng.
+ Khói xà nu dùng để xông bảng nứa để Mai và Tnú học chữ
+ Nhựa xà nu còn dùng để làm đuốc.
+ Rừng xà nu còn chứng kiến mối tình của Tnú và Mai.
Nó còn xuất hiện trong những sự kiện trọng đại của dân làng:
+ Đuốc xà nu sáng rực trong đêm Tnú về làng ở nhà ưng.
+ Giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú bằng nhựa xà nu.
+ Đống lửa xà nu chứng kiến cảnh dân làng Xô Man vùng lên giết chết tiểu đội giặc.
Cây xà nu được mở đầu và kết thúc theo trật tự tăng tiến (ở mở đầu là “đồi xà nu” => kết thúc là “những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”). Sức sống bất diệt của Tây Nguyên và con người nơi đây tạo nên khung cảnh hùng vĩ, hoành tráng cho câu chuyện.
Ý nghĩa biểu tượng của cây xà nu: Vì nó là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh ẩn dụ cho con người Tây Nhiên nói chung và của cả dân làng Xô Man nói riêng. Rừng xà nu cũng như dân làng Xô Man đều nằm trong tầm hủy diệt của giặc, đều trong tư thế đối mặt với cái chết, vừa là nạn nhân của cuộc chiến tranh khốc liệt: “Làng nằm trong đại bác của đồn giặc”
Cách dẫn dắt lôi cuốn, hấp dẫn, gợi lên không khí ác liệt của cuộc chiến tranh.
Cây xà nu biểu tượng cho những đau thương mất mát của dân làng Xô Man:
Cây xà nu cũng như con người là đối tượng hủy diệt của bom đạn kẻ thù: “Cả rừng không cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, nhựa ứa ra tràn trề đặc quyện thành từng cục máu lớn”.
Tác giả đã sử dụng kiểu câu phủ định của phủ định: “Cả rừng không cây nào không bị thương” Khẳng định mạnh mẽ sự mất mát đau thương của thiên nhiên cũng như con người dưới boom đạn của giặc
Cũng như rừng Xà nu, dân làng Xô Man cũng chịu nhiều đau thương, mất mát vô bờ bởi sử tàn bạo của quân thù, “tiếng khóc kêu dậy cả làng, bà Nhan bị chặt đầu, anh, mẹ con Mai bị tra tấn dã man đến chết và Tnú bị đốt mười đầu ngón tay.”
Hình ảnh nhưng cây con “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên” Tượng trưng cho thế hệ kế thừa (thằng bé Heng).
Hình ảnh “những cây con bị đại bác chặt đứt làm đôi” Tượng chưng cho những nạn nhân đã hi sinh cho tổ quốc (Bà Nhan, Anh Xút…)
Hình ảnh “những cây vượt lên trên được cao hơn đầu người”, “đạn đại bác không giết nổi chúng” Tượng trưng cho những người chịu đựng bao sự mất mát và tra tấn của giặc nhưng không hề từ bỏ (Tnú, Dít…).
Cây xà nu có khả năng sinh sôi mãnh liệt:
Cây xà nu có một sức sống mãnh liệt, không gì có thể tàn phá nổi, “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “cây mẹ ngã, cây con mọc lên”.
Cũng như con người Tây Nguyên luôn bền bỉ vươn lên, không hề khuất phục trước bạo lực cường quyền, thậm chí là cái chết. Các thế hệ cứ nối tiếp nhau, người trước ngã xuống, người sau tiếp tục tiến lên, tiếp tục kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước: Anh Quyết hi sinh đã có Tnú đứng lên, Mai hi sinh đã có Dít tiếp nối, sau Dít còn có bé Heng. Họ đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống Đế Quốc Mĩ.
Cây xà nu tượng trưng cho khát vọng tự do, hướng đến cách mạng của đồng bào Tây Nguyên:
“Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng từ trên cao rọi xuống từng luồng lớn thẳng tắp” cũng giống như dân làng Xô Man luôn hướng đến ánh sáng của Cách Mạng, lý tưởng của Đảng để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Dân làng tự hào “Năm năm, chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt và giết trong rừng làng này” bởi họ bảo vệ những cán bộ cách mạng còn hơn chính bản thân mình.
Rừng xà nu là một thành viên không thiếu của dân làng Xô Man, nó bất diệt theo thời gian, che chở cho làng trước những trận mưa bom bão đạn của quân thù “Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra để che chở cho làng”.
Rừng xà nu là một hình tượng tượng nghệ thuật sáng tạo, độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nó mang tính biểu tượng cho con người Tây Nguyên kiên trung, bất khuất, tràn đầy sức sống, khao khát tự do, trung thành với Cách Mạng. Đây còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên tráng lệ, gắn bó với con người. Chính vì vậy, nó đã trở thành bối cảnh , bức tranh hùng vĩ để nhân vật xuất hiện.
Bằng nghệ thuật nhân hóa, so sánh độc đáo, hình ảnh giàu giá trị tạo hình, gợi cảm, tác giả đã miêu tả con người thường song song với cây xà nu. Cách miêu tả này tạo nên sự hòa nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong không gian tráng lệ, hào hùng.
Hình tượng nhân vật Tnú: Là nhân vật chính trong tác phẩm, hiện lên qua câu chuyện của cụ Mết kể cho dân làng nghe về cuộc đời đầy bi tráng của anh trong đêm Tnú về thăm làng sau ba năm đi Cách Mạng.
Hoàn cảnh của Tnú:
Anh là người Strá, mồ côi cha mẹ từ nhỏ
Anh lớn lên trong sự bảo bọc, che chở của dân làng Xô Ma.
Tnú có một số phận bất hạnh
Anh giác ngộ cách mạng, học tập và tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh Quyết.
Tính cách của Tnú:
Khi Tnú còn nhỏ:
Tnú là một người dũng cảm, gan góc, giác ngộ cách mạng ngay từ nhỏ:
Giặc giết chết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú vẫn không sợ. Anh vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. Đây là công việc vô cùng khó khăn, nguy hiểm khiến dân làng mãi tự hào “năm năm, chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt và giết trong rừng làng này”
Khi anh Quyết hỏi: “các em không sợ giặc bắt à?”, Tnú dõng dạc nhắc lại lời của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”
Khi bị bọn giặc tra tấn, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu, anh đặt tay lên bụng và dõng dạt nói: “Cộng sản ở đây này”
Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, “lấy đá đập vào đầu đến chảy máu ròng ròng”. Suy cho cùng, hành động này xuất phát từ mục đích học giỏi để có thể làm cách mạng, cứu dân, cứu nước.
Tnú là một người thông minh, nhanh trí:
Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Bởi theo Tnú, những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” tới.
Khi bị giặc phục kích, họng súng “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nuốt luôn lá thư bí mật vào bụng. Dù bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai chỗ ở của cách mạng, của cộng sản. Rất có tinh thần trách nhiệm trong công việc.
Ngay từ nhỏ, Tnú đã là một cậu bé liên lạc luôn trung thành với cách mạng với những phẩm chất tốt đẹp của một người chiến sĩ thực thụ đúng như lời nhận xét của cụ Mết: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
Khi Tnú lớn lên: Anh thay anh Quyết lãnh đạo dân làng Xô Man chiến đấu
Anh là một người dũng cảm, kiên cường, bất khuất, không đầu hàng trước bạo lực cường quyền, trước những đau thương mất mát:
Đau đớn khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, sát hại một cách dã man: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
Khi bị kẻ thù đốt mười đầu người tay, ngọn lửa như thiêu đốt cả ruột gan, “máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh cắn nát môi anh rồi” nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn nhớ lời dạy của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Lòng trung thành của Tnú cũng giống như cụ Mết, cả hai đặt niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng: “Đảng còn, núi nước này còn”.
Thế nhưng, dù bị tàn tật mười đầu ngón tay, Tnú vẫn gia nhập lực lượng để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương đất nước và lập được chiến công “giết chết một tên chỉ huy bằng đôi bàn tay tàn tật”.
Anh là một người giàu tình cảm, sống tình nghĩa với mọi người
Anh rất yêu dân làng, kính trọng cụ Mệt:
+ Dù được nghỉ phép chỉ có duy nhất một ngày ngắn nhưng Tnú vẫn lặn lội đường xa về thăm làng, thăm quê hương.
+ Anh san sẻ phần muối ít ỏi cho cụ Mết.
Anh rất yêu vợ con, yêu thương gia đình:
+ Không đi Kom Tum mua vãi được, “anh xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con”.
+ Đau đớn khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, sát hại một cách dã man: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Tnú tay không đã xông vào cứu vợ con. Động lực ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bổng ngọn lửa yêu thương và căm hờn. Khi xông ra, việc đầu tiên anh làm là bảo vệ vợ con. “Hai cánh tay lớn như hai cánh lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”.
Anh yêu bản làng, yêu quê hương đất nước:
+ Khi anh đang cận kề với cái chết, Tnú không nghĩ đến sự an toàn của bản thân mà chỉ lo cho vận mệnh của dân làng, của quê hương: “Ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo cho dân làng?”.
+ Trên đường trở về làng, Tnú nhớ từng gốc cây, nhớ từng tiếng chày giã gạo. “Được vòi nước của làng giội lên khắp người (…), Tnú xúc động”, anh “có cái bụng thương núi, thương nước”. Cũng chính vì vậy, Tnú đã tham gia vào cách mạng, chịu nhiều đau thương.
Ở Tnú có tính kỉ luật rất cao, rất nghiêm túc trong công việc:
Tham gia vào lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng được phép mới về thăm làng. Băng rừng lội suối vất vả nhưng cũng chỉ ở đúng một đêm như cấp trên cho phép.
Khi về làng là phải có giấy xin phép của chỉ huy.
Cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của dân tộc với những khát vọng tự do, yêu quê hương, yêu đất nước và căm thù giặc sâu sắc.
Đặc biệt là hình ảnh đôi bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – bàn tay ấy cũng có một cuộc đời:
Khi đôi bàn tay còn lành lặn:
+ Đó là đôi bàn tay tình nghĩa và trung thực Phản ánh những phẩm chất tốt đẹp của Tnú
+ Đó là đôi bàn tay từng lựa những viên đá trắng ở núi Ngọc Linh về học chữ
+ Đó là đôi bàn tay từng cầm hòn đá tự đập vào đầu mình để thể hiện sự quyết tâm học chữ.
+ Đó là đôi bàn tay mạnh mẽ, dứt khoát chỉ vào bụng mình “Cộng sản ở đây này”.
+ Đó còn là đôi bàn tay tình nghĩa, ôm chặt mẹ con Mai vào lòng
Khi đôi bàn tay ấy bị thương: Đó là chứng tích của tội ác bạo tàn của giặc. Đôi bàn tay bị cụt 10 ngón bởi bị đốt nhựa xà nu.
Đôi bàn tay Tnú thể hiện sự hận thù, nỗi đau riêng, nỗi đau của cá nhân. Và cuối cùng nó đã trở thành bàn tay báo thù cho nỗi đau chung của cả một dân tộc. Chính đôi bàn tay ấy đã đốt lên ngọn lửa đấu tranh cho dân làng Xô Man. Cũng chính đôi bàn tay ấy đã bóp chặt tên chỉ huy giặc khi nó cố thủ ở trong hầm.
Số phận và tính cách của Tnú đại diện cho con đường đấu tranh và bản lĩnh kiên cường của dân tộc Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Cuộc đời đầy bi tráng và đường đến với Cách mạng của Tnú là minh chứng cho một chân lý, thể hiện qua câu nói của Mết: “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nói một cách khác, để bảo vệ quê hương, bảo vệ đất nước, chỉ có một cách duy nhất là cầm vũ khí đứng lên, đấu tranh chống lại kẻ thù. Cuộc đời của Tnú dài như cả một đời người, như số phận của cả một dân tộc nhưng chỉ được kể lại vỏn vẹn trong vòng một đêm.
Các thế hệ của làng Xô Man.
Cụ Mết:
Ngoại hình, hoàn cảnh:
Đây là già làng, người đứng đầu dân làng Xô man
Ông đã già (ngoài 60 tuổi) nhưng thân hình cường tráng, khỏe mạnh “râu đen bóng dài tới ngực, ngực căng như cây xà nu lớn”
Giọng nói thì “ồ ồ, vang dội trong lồng ngực” Thể hiện cá tính con người mạnh mẽ, lời nói như mệnh lệnh “chém, chém hết”.
Tư thế: Dũng mãnh, mang dáng dấp những người anh hùng trong các bản trường ca Tây Nguyên.
Tính cách:
Ông không bao giờ khen “tốt” hay “giỏi”, những lúc vừa ý nhất, ông chỉ khen “được”.
Ông rất được mọi người tôn trọng. Khi cụ Mết đang kể lại cuộc đời của Tnú, tất cả mọi người đều im lặng lắng nghe.
Ông là một người yêu quê hương đất nước, luôn tự hào “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng”.
Ông rất yêu thương dân làng, dành muối cho những người ốm.
Hành động cụ Mết nổi lửa ở nhà ưng, tập hợp dân làng để kể lại cho mọi người nghe về cuộc đời của Tnú cho thấy đây là cách ông cụ gìn giữ truyền thống tốt đẹp đầy tự hào của dân tộc mình. Ông muốn các thế hệ sau phải noi gương anh hùng của các thế hệ trước. Ông là người giữ lửa cho dân làng Xô Man.
Cụ Mết còn là một người lãnh đạo có tầm nhìn xa trong rộng, có đủ bản lĩnh dẫn dắt, kinh nghiệm trong chiến đấu để dẫn dắt dân làng.
+ Tiết kiệm lương thực , phục vụ cho con đường kháng chiến (không nêm muối vào ăn mà ăn sống, đủ gạo ăn nhưng nấu cơm vẫn độn củ bom chu…)
+ Rút ra kinh nghiệm trong đấu tranh: “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”
Cụ Mết là linh hồn, là chỗ dựa vững chắc cho Tnú cũng như dân làng Xô Man. Ông giống như hình tượng cây xà nu luôn bảo bọc, che chở, dẫn dắt dân làng, vươn tới ánh sáng của sự tự do, độc lập, hạnh phúc.
Nhân vật Dít: (Em gái của Mai, là em vợ của Tnú).
Ngoại hình: Dít có ngoại hình xinh đẹp, ấn tượng “Cái mũi hơi tròn của Dít ngày trước nay đã thẳng và nhỏ lại, hai hàng lông mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt”, đặc biệt Dít lớn lên rất giống Mai.
Tính cách:
Từ nhỏ, Dít đã rất gan lỳ, dũng cảm
+ Liên lạc, đưa lương thực cho cụ Mết, Tnú và thanh niên tring rừng
+ Khi bị bắt, tra tấn bằng những loạt đạn xung quanh mình, Dít chỉ im lặng, mở to đôi mắt căm hận sau những tiếng hét sâu.
Lớn lên: Dít trở thành một chỉ bí thư chi bộ nghiêm khắc, có tính kỉ luật cao và công tư phân minh (Kiểm tra giấy phép của Tnú).
Dít được dân làng yêu mến và quý trọng.
Dít có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để kế thừa vai trò lãnh đạo của Tnú.
Thằng bé Heng: Cách ăn mặc của thằng bé vừa trẻ con, vừa ra dáng một người lính, “nó đội một cái mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự”. Thằng bé rất tự hào về vai trò , vị trí công việc liên lặc của mình, bởi nó đã đóng góp một phần sức lực của mình chi cuộc đấu tranh của dân làng. Đây chính là thế hệ tương lai sớm trưởng thành và đủ sức kế thừa truyền thống của ông cha ta.
Nghệ thuật xây dựng truyện:
Tác phẩm mang đậm tính sử thi được thể hiện qua nhiều góc độ:
+ Đề tài sử thi: Đề cập đến cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
+ Nhân vật sử thi: Tnú là nhân vật anh hùng, đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh.
+ Bối cảnh sử thi : Đó là bức tranh thiên hùng vĩ, làm nền cho nhân vật xuất hiện (Rừng xà nu)
+ Âm điệu và ngôn ngữ sử thi: Âm điệu hào hùng, tráng lệ, ngôn ngữ trang trọng.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được xây dựng có nét cá tính riêng, vừa khát quát tiêu biểu cho cộng đồng, sống động, chân thật.
Ngôn ngữ giàu tính tạo hình với nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ, giọng điệu câu văn khi hào hùng, mạnh mẽ khi âm trầm, tha thiết, lắng đọng.
TỔNG KẾT
Ghi nhớ SGK.