Chào các quý thầy cô, hôm nay LogaVN gửi tới quý thầy cô giáo án "Một người Hà Nội - Nguyễn Khải". Hi vọng sẽ giúp ích cho các quý thầy cô giảng dạy.
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm 1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước, còn họ hàng chỉ còn lại có dăm gia đình, vì chồng và con đều đi theo cách mạng. Cô Hiền cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội suốt chín năm đánh Pháp, các con lại còn nhỏ, chả có dính líu gì đến chính phủ "ngoài kia" cả. Họ ở lại chỉ vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Lại thêm, chú tôi làm nghề giáo học, một ông giáo dạy cấp tiểu học, là người cần thiết cho mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học văn hóa và học làm người. Còn chính trị chính em là những lứa tuổi trên, học sinh tú tài và sinh viên đại học. Tính thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng để phải lo, nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm.
Nguyễn Khải
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Thư viện online
isach.infoThông tin về ebook
Một Người Hà Nội
Tác giả: Nguyễn Khải
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: Tuyết Phương
Bìa: trinh ngoc thang
Định dạng ebook PDF-A4
Ngày xuất bản: 28-March-2017
Tổng số 14 trang
Click vào đây để đọc online
Thư viện online isach.info
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
1.
Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi.
Năm 1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng
hơn trước, còn họ hàng chỉ còn lại có dăm gia đình, vì chồng và con đều
đi theo cách mạng. Cô Hiền cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội
suốt chín năm đánh Pháp, các con lại còn nhỏ, chả có dính líu gì đến
chính phủ "ngoài kia" cả.
Họ ở lại chỉ vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở
một vùng đất khác. Lại thêm, chú tôi làm nghề giáo học, một ông giáo
dạy cấp tiểu học, là người cần thiết cho mọi chế độ, chế độ cộng sản
cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học văn hóa và học làm người.
Còn chính trị chính em là những lứa tuổi trên, học sinh tú tài và sinh
viên đại học.
Tính thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng để phải lo,
nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và
chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một
tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra
cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá
rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc
trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang
của nhà bạn bè.
Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày
da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn
nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có
một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người
ngồi đúng chỗ đã quy định.
Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi súm sít
quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên
trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 5
muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả
hê, không cần phải theo bó một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm
việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi của... giai cấp tư sản.
Tôi không dám thốt ra miệng nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau: "Cô
Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc
mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối".
2.
Đã là người gốc Hà Nội thì không thể không nghe nói tới sự giàu có
lương thiện của cụ Tú Dâu Hàng Bạc, là nhà ở cuối Hàng Bạc đầu Hàng
Mắm. Xưa kia đất ấy là bến sông, mành Nghệ An chở nước mắm ra đổ
tại bến và bốc ngay lên nhà. Nước mắm đổ vào các kiệu chôn chìm
trong đất, mỗi lần thay phải dùng khăn bông trắng lau chùi sạch. Một
dãy nhà chôn kiệu nước mắm và một gian nhà để tiền, tiền kẽm, mang
một quan tiền kẽm đã phải vác vai.
Cụ Tú đậu tú tài khoa thi hương cuối cùng khi tuổi đã lớn, sau đó là bỏ
hẳn bút lông để theo bút sắt. Cụ Tú ngâm thơ vịnh nguyệt, ăn ở giao
tiếp theo kiểu cách nhà quan, dạy con cái cũng theo khuôn phép nhà
quan là cái phần hào nhoáng của gia đình. Còn cái phần căn cốt, cái
phần được người đời trọng thực nể thực, cái gian nhà tiền ấy đều do hai
bàn tay đảm đang của vợ gây dựng nên. Bà chỉ buôn có nước mắm thôi.
Thơ của cụ Tú được bạn bè khen nịnh chẳng qua là nhờ ở cái mùi nước
mắm Nghệ, nhờ ở cái mùi tiền từ các kiệu nước mắm, con cháu sau này
vẫn đùa vụng thế.
Bà Tú Dâu là em ruột bà ngoại tôi và là chị ruột mẹ cô Hiền. Hình như
cả ba chị em đều lớn lên ở Hà Nội cùng một thời, cái thời Pháp mới
sang, phố phường còn là nhà lá, nhưng chỉ có bà Tú là tiếng tăm hơn cả.
Nhìn những tấm ảnh các cụ chụp từ đầu thế kỷ mà cảm động. Các cụ
đều không được đẹp, mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài, lại hơi xếch
một chút, gò má thì cao. Cả ba cụ đều ăn mặc theo cái mốt của thời ấy:
khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc
quần lĩnh Bưởi và đi hài. Ba bà đặc nhà quê nhưng lại đẻ ra một loạt con
gái rất tân thời. Khoảng cuối những năm ba mươi, mẹ già tôi vẫn để
răng đen, nhưng đã vấn tóc trần, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng
chạm vừa thô vừa nặng.
Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 6
đồng màu, hoặc đen hết, hoặc trắng hết. Còn nữ trang đã biết dùng đồ
ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cũng vào những năm ấy có một số gia đình
công chức cao cấp và quan lại, có cả mấy nhà buôn bán tơ lụa, thuốc
bắc, kim hoàn, cho con gái lớn mở phòng tiếp khách văn chương, gọi là
salon littéraire để mời gọi mấy anh văn sĩ, thi sĩ mới nổi và các cậu sinh
viên cao đẳng. Khách văn chương là cái khung phải có, còn đám công tử
một mai sẽ thành quan đốc, quan trạng, quan huyện mới là những nhân
vật chính của mọi mộng mơ theo kiểu Tự lực văn đoàn.
Ngôi nhà của cô Hiền cũng là một salon nổi tiếng, không phải vì bố mẹ
giàu hoặc sang mà vì có con gái lớn quá đẹp, vừa đẹp vừa thông minh,
biết cách tự khoe bằng những mẩu chuyện rất duyên dáng của mình.
Tôi sở dĩ biết vô ối chuyện vặt vãnh của mấy ông Lan Khai, Đái Đức
Tuấn tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh... là do cô
tôi kể lại cả. Ông Trương còn nhờ cô đọc giùm bản thảo của nhiều cây
bút chưa thành danh, một phần vì tin ở tài thẩm định văn chương của
cô, phần nữa cũng vì ông bận quá: bận viết, bận hút và bận cách làm
giàu.
Tôi hỏi đùa: "Vậy cái ông Nam Cao là do cô tìm được ra phải không?"
Cô trả lời rất nghiêm trang: "Ông Lê Văn Trương tìm ra. Là do ông nằm
hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, tiện tay với lấy một chồng bản thảo để
kê đầu, rồi tiện tay lôi ra một tập để đọc, cái tập ấy có tên "Cái lò gạch"
do một cây bút hoàn toàn vô danh viết ra".
3.
Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng với lứa tuổi chúng tôi
ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh, là cực kỳ khoan khoái.
Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu
bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban
ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở Hà Nội, mãi mãi
còn ở Hà Nội.
Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật
vui nhỉ? Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách
làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần tôi đến thăm cô chú, thằng em
trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa rồi kêu ầm lên: "Mẹ ơi! Đồng chí Khải
đến". Cô tôi cau mặt gắt: "Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa?" Bất đồ chú
tôi cũng bước tới, nắm tay tôi rồi hỏi hồn nhiên: "Tại sao chủ nhật trước
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 7
đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi". Cô tôi thở dài, quay người
đi. Tôi nói: "Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?" Cô trả lời: "Vui hơi
nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?".
Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập
thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống
ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho
kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động nhau không nên nuôi
người ở. Nhà này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú.
Chị vú là vợ anh bếp, đẻ được đứa con nào lại đưa về quê cho bà ngoại
nuôi.
Sau ngày giải phóng cô tôi cho anh bếp về quê làm ruộng, còn chị vú
vẫn ở lại, vì chủ tớ còn cần dựa vào nhau. Mỗi ngày chị đi chợ, đều có
cán bộ bám theo, dò hỏi: "Chị có bị nhà chủ hành hạ không? Tiền công
có đưa đều đặn không? Thái độ chính trị của họ là như thế nào?" Chị vú
gắt ầm lên: "Nếu họ không tử tế tôi đã xéo đi từ lâu rồi không cần anh
phải xui". Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận: "Cách
mạng gì toàn để ý đến những chuyện lặt vặt!". Bây giờ thì chị vú đã mất
rồi, về quê được bốn năm thì mất. Chị trông con cho bà cô tôi từ năm 19
tuổi đến năm 45 tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ. Anh
chồng không lấy vợ khác vì các con đã trưởng thành, anh làm chủ
nhiệm một cửa hàng mua bán của xã, ngày giỗ ông chú và ngày tết đều
đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và
các em.
4.
Trong lý lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại
bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào thêm
phiền. Tôi vẫn đinh ninh cô phải thuộc giai cấp tư sản vì cô có gương
mặt đặc biệt là tư sản, càng già lại càng rõ. Tôi hỏi cô:
- Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?
Cô Hiền cười rất tươi:
- Tao chưa đủ tiêu chuẩn.
Tôi cũng cười:
- Lại còn chưa đủ.
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 8
Cô nói thản nhiên:
- Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không
bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.
Tôi nín lặng vì đó là sự thật. Cửa hàng của cô chỉ bán có một thứ: hoa
giấy, các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng tre, thêm ít bưu ảnh và
sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ,
chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp
phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây.
Nhiều bà bạn cũng tỏ ý ngờ vực: "Trông bà như tư sản mà không bị học
tập cũng lạ nhỉ?". Cô tôi trả lời thật nhẹ nhàng: "Các bà không biết
nhưng nhà nước lại rất biết". Tất nhiên là cô khôn hơn các bà bạn của cô
và cũng thức thời hơn ông chồng. Sau ngày Hà Nội giải phóng cô vẫn có
hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Ông làm
nghề dạy học, con đông, đủ ăn là may, có tiền dư để tậu nhà là do ông
viết sách giáo khoa cấp tiểu học, được Nha Học chính công nhận và cho
in bán.
Năm 56, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng
chiến về. Một năm sau có một cán bộ đến hỏi về nhà cửa và có nhắc tới
ngôi nhà ở Hàng Bún. Cô trả lời tỉnh khô: "Xin mời anh tới ngôi nhà anh
vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin
mời anh trở lại". Cũng trong năm 56, ông chú tôi muốn mua một cái
máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chế độ mới không cho
phép ông mở trường tư thục. Bà vợ hỏi lại: "Ông có đứng máy được
không?" - Ông chồng trả lời: "Không" - "Ông có sắp chữ được không?" -
"Không"- "Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn
làm một ông chủ dưới chế độ này à?" Ông chồng tính vốn nhát, rút lui
ngay.
Cô kết luận với tôi: "Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần
họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là
nhục, nên tao chỉ cần đủ ăn". Làm hoa giấy không thể làm giàu được
nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại: "Còn chú,
còn các em?" - "Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi
làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không
phải sống bám".
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 9
5.
Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những người đàn bà có đầu óc rất
thực tế. Mọi sự mọi việc đều được các bà tính toán trước cả. Và luôn
luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng
chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm,
đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô tuyên
bố thẳng thừng với tôi: "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế
độ".
Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết,
cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một thời còn
son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là
một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải
kinh ngạc. Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả. Sau khi sinh đứa con
gái út, người con thứ năm, cô nói với chồng: "Từ nay là chấm dứt
chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì
con út đã hai mươi, có thể tự lập, khỏi sống bám vào các anh chị". Là
thôi hẳn.
Cô bảo tôi: "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ
việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy
cũng chẳng ra sao". Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú
ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói
chuyện trong bữa ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi: "Chúng mày là người Hà
Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện,
buông tuồng". Có lần tôi cãi: "Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại
bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm". Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi
bảo: "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn
sống ra sao là tùy".
Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, là
đợt đầu tiên nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18 đến 25, diễn viên
cải lương và kịch nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên trung học rất
đông, là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660
người. Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình
nguyện đăng ký xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên
huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam.
Họ dừng lại ở Hà Nội vài giờ vào lúc tối, nhưng không một ai biết. Tôi
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 10
hỏi cô: "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?" Cô trả lời: "Tao đau
đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của
bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Ba năm cô không nhận được
tin tức gì về đứa con đã ra đi, lại đến thằng con kế làm đơn xin tòng
quân, cũng đòi vào chiến trường phía trong để gặp anh, nếu anh đã hy
sinh thì nối tiếp chí hướng của anh. Tôi hỏi lại cô: "Cô cũng đồng ý cho
nó đi à?" Cô trả lời buồn bã: "Tao không khuyến khích, cũng không
ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải
chết, cũng là một cách giết chết nó". Rồi cô chép miệng: "Tao cũng muốn
được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui
lẻ thì có hay hớm gì".
Cũng may chú em tôi học rất giỏi, thi vào đại học với số điểm cao, nên
nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và em, cô nói: "Hiện tại thì nó
may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì cũng chưa biết đứa
nào may hơn đứa nào". Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là
như thế.
6.
Tháng 12 năm 1975, cô Hiền cho con gái xuống nhà gọi vợ chồng tôi tới
ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: "Nó đeo ba lô bước vào đến
giữa nhà tao còn hỏi, anh muốn mua gì?" Tôi cũng không thể nhận ra
nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen
quá, râu ria cũng nhiều quá, chẳng còn tí dấu vết gì là một chàng trai
của Hà Nội.
Trong mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô đều tổ chức một
bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành
danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng
đóng từ chiều, các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng làm
cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên
trong còn mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày
xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi cửa
trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt
trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa
xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển.
Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc,
vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 11
mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý
tứ. Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này,
toàn là những người quí phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi:
"Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn
cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào?". Tôi cười phá
lên: "Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai
nữa".
Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi chỗ, quan hệ
kiểu lính, vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một
mùi lính. Là người lính vừa chiến thắng, người lính đang được cả xã hội
trọng vọng. Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm,
tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời của các
giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên viên
kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã
hội.
Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa tiệc của mấy người
thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai anh bộ đội
từ một thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng là nhân vật
chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang
chung mà thôi. Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về
thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình,
về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội.
Những người ngồi nghe đều nín lặng, không một ai hỏi lại, không một
ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều gì thất thố?
Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: "Đồng chí bộ đội có chuyện
gì vui kể nghe nào?" Dũng nói: "Thưa các bác, chỉ có những chuyện
không được vui lắm". Một bà nói: "Cứ nói, người ở xa về có quyền
muốn nói gì thì nói". Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt
nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu
trăm sáu mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục.
Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp thượng úy,
tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần
nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh điện lòe nhòe trên lá cây, trên những
mặt đường vắng hun hút, trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì từ
đâu đó bật lên tiếng loa rất sâu, rất vang: "Quí khách chú ý! Quí khách
chú ý! Chuyến tàu từ Thái Nguyên...". Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 12
người qua mặt bạn, gần như đưa cả nửa thân người qua khuôn cửa sổ,
hất mặt lên phía có tiếng loa kêu nho nhỏ: "Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ
mình đấy! Tiếng của mẹ mình đấy!...". Không một ai được phép rời khỏi
toa tầu, không một người thân nào được biết trước để chờ sẵn ở sân ga,
để được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất cả đều phải
bí mật. Dũng kể tiếp:
- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng
có mấy ngày. Cháu về Hà Nội là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng
phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh
nhau trong suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau cháu mới dám
đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của
con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay. Bà bước ra
giữa một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay được là mẹ của Tuất.
Tuất vẫn nói là hắn giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp nói: Thưa
cô, cháu là Dũng... nước mắt đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt một đứa
trẻ. Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu nhưng không khóc. Và bà nói
run rẩy: "Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng
nay rồi".
7.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng
có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã mất rồi. Các
em đã có gia đình riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp các cụ
trong họ chỉ còn vài người, cô Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn,
ngoài bẩy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm nay, thuần
túy Hà Nội, không pha trộn. Nơi tiếp khách của cô sau tấm bình phong
cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không hề thay
đổi.
Một bộ sa lông gụ "cái khánh", cái sập gụ chân quì chạm rất đẹp nhưng
không khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một cái lọ men Thúy
Hồng, một cái lư đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ
bình lọ màu men thì thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô
đang lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi
bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng, thật đẹp. Bên ngoài trời rét,
mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại nhìn một bà
lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát bày thủy tiên
thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một cái tết Hà Nội.
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 13
Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn
buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ? Ví
thử có thủy tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái
cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát
khỏi cái chết cái khổ đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ
đẹp trang trọng của một rò hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi:
- Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào?
Tôi vừa cười vừa nói:
- Chưa bao giờ Hà Nội vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui.
- Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.
Tôi nói:
- Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn
nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau
ở ngoài đường là đủ rõ.
Nói thế cũng hơi nghiệt. Vì có mấy việc vừa xảy ra làm tôi tức, tức và
đau. Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa
nghĩ ngợi. Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe
tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại nói cũng nhẹ nhàng: "Cậu đi đâu
mà vội thế?". Hắn không trả lời, đạp vượt qua xe tôi, rồi quay mặt lại
chửi một câu đến sững sờ: "Tiên sư cái anh già!".
Lại một buổi sáng tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống Đa, đã lâu
không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là
nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con
thú lạ. Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người
Hà Nội, cô con gái đang cho con bú góp lời liền: "Ông ăn mặc tẩm như
thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi con
cúp xem, thưa gửi tử tế ngay". Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế!".
Cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui
vẻ của tôi về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ
ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè
năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền
Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một
Một Người Hà Nội Nguyễn KhảiTrang 14
phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự
khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời.
Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế
hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng
đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết nói
thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành phố cho máy cẩu
tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên, mỗi
ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si
của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà
lại sống. Cô nói thêm: "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không
thể lường trước được".
Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên
thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải
biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào
những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng
quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của
Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh
đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ
chói sáng những ánh vàng.
NGUYỄN KHẢI
19-1-1990
Powered by TCPDF (www.tcpdf.org)
Một Người Hà Nội Nguyễn Khải