1. “Ca dao cũng là thơ” ý nói ca dao mang bản chất trữ tình, lấy cảm xúc, tâm trạng làm đối tượng mô tả. Ca dao diễn tả tình cảm, suy nghĩ của người dân lao động.
“Loại thơ đặc biệt” là ý phân biệt ca dao với thơ trữ tình của văn học viết. Sự khác nhau ở chỗ, thơ là thế giới cảm xúc, là tâm trạng của tác giả, mang tính cá nhân trong hoàn cảnh cụ thể. Thơ mang màu sắc cá nhân, cá tính của nhà thơ. Còn ca dao tuy cũng thể hiện tình cảm, tâm trạng nhưng đó là tâm trạng cảm xúc mang tính cộng đồng, thể hiện cảm xúc, tâm trạng của cộng đồng.
Sự khác nhau còn nằm ở chỗ, thơ coi trọng sự sáng tạo, độc đáo, không chấp nhận sự lặp lại. Trái lại, ca dao lại ưa dùng những công thức mang tính lặp lại. Sự sáng tạo và trình diễn đều dựa vào những công thức truyền thống đó. Mỗi dạng thức mang trong nó vẻ đẹp, sự chuẩn mực của lối diễn đạt và chứa đựng những nội dung nhất định. Ví dụ các công thức mở đầu : Thân em, Em như, Thương thay, Ước gì, Ngày xưa, Rủ nhau…
2. Qua những câu ca dao yêu thương, tình nghĩa, nhân vật trữ tình hiện lên là những người giàu tình cảm, sống thuỷ chung, thắm thiết. Nhân dân lao động là những người chân thật, trọng tình cảm. Hơn nữa, ca dao là thể loại dành sự quan tâm đặc biệt đến việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của con người cho nên tình cảm của người lao động có dịp phô bày, nảy nở và thăng hoa.
Trước hết đó là tình cảm nam nữ, sự yêu thương gắn bó, tình cảm thuỷ chung. Những tình cảm thường ngày được biểu hiện một cách chân thành, giản dị.
Thứ hai, ca dao thể hiện khát vọng tình yêu và hạnh phúc. Đây là mong muốn đời thường và giản dị nhưng cũng là khát vọng lớn lao vì con người trong xã hội xưa không có điều kiện thực hiện ước mơ đó, không tự quyết định số phận của mình. Trong ca dao, mong muốn đó được bộc lộ một cách sôi nổi, nồng nhiệt.
Thứ ba, các chàng trai, cô gái trong những câu hát yêu thương tình nghĩa luôn là những người tinh tế, nhạy cảm, có cách nói nhẹ nhàng, tế nhị.
3. Các biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao là so sánh, ẩn dụ, nhân hoá… Các biện pháp nghệ thuật đó tạo ra cách diễn đạt sinh động, giàu hình ảnh. Việc biểu hiện cảm xúc cũng tế nhị, tinh tế hơn nhờ các biện pháp nghệ thuật đó. Chẳng hạn như biện pháp ẩn dụ.
Ẩn dụ đem đến ý nghĩa nhận thức sâu sắc, có khi đưa đến một nhận thức mới. Ẩn dụ luôn đưa đến lối tư duy mới về những hình ảnh tưởng chừng đã quen thuộc, điều đó phụ thuộc vào khả năng liên tưởng của mỗi người :
Tiếc thay hạt gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
Nếu chỉ dựa trên lớp nghĩa bề mặt thì chúng ta mới chỉ nhận thấy mối quan hệ khập khiễng, không cân xứng giữa các đối tượng trong đó. Nhưng từ nhận thức về mối liên hệ của các sự vật, chúng ta có thể hiểu lớp nghĩa ẩn dụ trong câu ca dao. Đó là sự ngậm ngùi xót xa cho thân phận con người, sự không bằng lòng với sự sắp đặt của số phận. Ẩ n dụ là sự so sánh ngầm cho nên sự nhận thức cũng đòi hỏi ở mức độ cao hơn :
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Ẩn dụ trong ca dao còn mang tính thẩm mĩ cao. Biện pháp ẩn dụ giúp cho nhân vật trữ tình có thể diễn tả những trạng thái cảm xúc khác nhau, thể hiện những tình cảm riêng tư một cách kín đáo, ý nhị, tăng thêm phần tình tứ, duyên dáng :
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Ẩn dụ có ý nghĩa biểu cảm : ẩn dụ trong ca dao khác với ẩn dụ của tục ngữ hay câu đố (mang tính nhận thức là chủ yếu). Ẩn dụ trong ca dao giàu sắc thái biểu cảm, nhiều cung bậc tình cảm của con người biểu hiện trong ca dao, những cảm xúc nhiều khi bị dồn nén nhưng chính vì thế mà càng sâu sắc, càng ý tố :
+ Trách người quân tử vô tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
+ Tưởng giếng nước sâu nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây.
Một trong những biểu hiện của biện pháp ẩn dụ là hình thức nhân hoá. Đây là kiểu ẩn dụ độc đáo và sinh động. Việc nhân hoá các sự vật, các hiện tượng giúp cho nhân vật trữ tình có đối tượng để giao tiếp, giãi bày cảm xúc :
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ…
4. Câu ca dao sử dụng một hình ảnh rất bình dị và quen thuộc với người dân Việt Nam : “nuộc lạt”. Nuộc lạt gợi nhớ bàn tay, công sức xây dựng, gắn bó với ngôi nhà của ông bà, cha mẹ. Từng nút dây buộc của lạt tre trên mái nhà cũng như sợi dây tình cảm liên hệ các thành viên trong gia đình. Ca dao người Việt cũng có nhiều câu mở đầu bằng cụm từ “ngó lên + địa danh, sự vật”, thường thì đó là dạng kết cấu ca dao một vế có phần vần, trong đó ngó lên thường có chức năng gieo vần :
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông,
Biết răng chừ cá gáy hoá rồng
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng khi xưa
Cấu trúc so sánh : bao nhiêu – bấy nhiêu thể hiện sự tương đồng, tăng cấp, mang ý nghĩa khẳng định. Nuộc lạt mái nha làm sao có thể đo đếm được, cũng giống như tấm lòng nhớ thương, yêu kính của con cháu trong gia đình đối với ông bà không thể đếm được. Câu ca dao giản dị, chân tình, gọi nhắc tình cảm thiêng liêng, cao cả từ một hình ảnh cụ thể, đời thường.
5. Trong một gia đình, anh chị em là những người một thịt gần gũi nhau nhất. Sự hoà thuận, thương yêu, đùm bọc nhau giữa những người con trong gia đình là niềm vui, hạnh phúc của cha mẹ. Anh chị em phải gắn bó với nhau như chân liền với tay trên cùng một cơ thể, không thể tách rời. Đó chính là yếu tố giúp cho gia đình hoà thuận, hạnh phúc, cũng là mong mỏi của các bậc cha mẹ. Để thấy được tình thân thiết, gắn bó của anh em, ca dao đã sử dụng biện pháp so sánh : Yêu nhau như thể tay chân.
Câu ca dao này cũng có các dị bản :
– Anh em như chân như tay
Như chim liền cánh như cây liền cành
– Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần
Quan niệm của Nho giáo “huynh đệ như thủ túc”, đã được diễn nôm một cách giản dị, giàu hình ảnh và gắn với tình cảm thân thiết của con người, để thấy được tình anh em chính là tình máu mủ. Câu ca dao vừa mang cấu trúc so sánh, vừa giản dị như một định nghĩa vể tình anh em ruột thịt, cùng với lời nhắn nhủ tha thiết, chân thành của tác giả dân gian đã càng củng cố mối quan hệ truyền thống tốt đẹp đó.
6. Bài ca dao chia làm hai phần vừa độc lập vừa gắn bó với nhau.
– Hai câu đầu tả cảnh đồng lúa trong cảnh bình minh.
– Hai câu sau tả dáng hình cô thôn nữ như những chẽn lúa đòng.
Nhưng cũng có thể coi bài ca dao là một phần thống nhất theo dạng kết cấu một vế có phần vần. Bởi hầu hết những câu ca dao trong hệ thống mô típ “Đứng bên ni…”, phần mở đầu chỉ có ý nghĩa gieo vần, gợi hứng cho cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Đây là lời của cô thôn nữ trước đồng ruộng quê hương, vừa ca ngợi vẻ đẹp của cánh đồng, vừa ý thức được vẻ đẹp của chính mình. Mặc dù hai câu sau cũng bắt đầu bằng cụm từ thân em nhưng không phải phản ánh vấn đề thân phận giống như hệ thống ca dao truyền thống mở đầu bằng hai từ thân em. Ở đây, hình ảnh chẽn lúa đòng đòng là biểu tượng cho tuổi xuân thì, vẻ đẹp thanh xuân và tình yêu, căng tràn sức sống, và cũng là sự gắn bó tự nhiên của cô gái với quê hương, đồng ruộng. Ngọn nắng hồng ban mai tươi tắn, trong trẻo làm tăng thêm vẻ đẹp và sức sống cho chẽn lúa đòng. Người con gái trẻ đẹp, niềm vui phơi phới, đang đón chào tương lai, hạnh phúc của mình.
Bài ca dao xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình – người thôn ngữ tràn đầy sức sống, tượng trưng vẻ đẹp khoẻ khoắn về cả thể chất lẫn tinh thần của người lao động. Hình ảnh con người tạo điểm nhấn, tạo ấn tượng sâu sắc trong bức tranh đồng quê đẹp đẽ, tươi tắn.