1.Năm 1946, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Hưởng ứng Lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân thị xã Hải Dương với tinh thần quả cảm, bám đất, bám làng, tổ chức nhiều trận đánh ngay trong lòng thị xã. Nhiều trận đánh khốc liệt, khiến giặc Pháp kinh hoàng đã diễn ra tại các địa danh như Cầu Phú Lương, Nhà Nông Phố, Nhà máy Chai, Trường Con gái. Qua chín năm kháng chiến, quân dân thị xã Hải Dương tiêu diệt, bắt sống, chiêu hàng 3.425 tên địch; phá hủy 56 đoàn tàu và xe quân sự, thu giữ nhiều phương tiện chiến tranh... góp phần cùng với quân dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biện Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, ngày 30-10-1954, quân dân Hải Dương tiến vào tiếp quản thị xã, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 30-10-1954 đã ghi mốc son lịch sử, khẳng định truyền thống vẻ vang, oanh liệt, đáng tự hào của Đảng bộ và nhân dân thị xã Hải Dương. Từ đây, Đảng bộ và nhân dân thị xã Hải Dương đã phát huy quyền tự do dân chủ, tạo sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với dân, thi đua lao động sản xuất, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo dựng cuộc sống tốt đẹp.
2.Hải là miền duyên hải, vùng đất giáp biển (Hải Dương xưa bao gồm một miền đất rộng lớn kéo dài từ Hưng Yên đến vùng biển Hải Phòng). Dương là ánh sáng, ánh mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Hải Dương có nghĩa là "ánh mặt trời biển Đông" hay "ánh sáng từ miền duyên hải (phía đông) chiếu về". Tên gọi Hải Dương chính thức có từ năm 1469
3.thờ tướng Trương Mỹ thời Hai Bà Trưng.