Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ tịch: “Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng. Dịch nghĩa:Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng.(Nam Trân dịch) Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc. Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thờ