Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ gợi mở ấn tượng chung của cả bài thơ: là nỗi nhớ, là dòng hồi tưởng về cảnh và người thôn Vĩ Dạ.Câu hỏi tu từ mở đầu khổ thơ mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách, vừa mời mọc.
Đây có thể là lời của người con gái thôn Vĩ trách người bạn xa lâu ngày không về chơi.Hoặc cũng có thể là lời của chính tác giả tự nói với lòng mình.
Tác giả Vĩ Dạ đã sử dụng từ chơi thay cho từ thăm vì chơi thân mật hơn, gần gũi hơn, về thăm nghe chừng khách sáo quá. Bức tranh bình minh thôn Vĩ trong dòng hồi tưởng của tác giả.Nắng là một mô típ ám ảnh trong thơ HMT: nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loan, nắng mới…Nắng mới lên đi liền với hàng cau bởi cau là cây cao nhất trong vườn, nó xuất hiện ở nhiều mảnh vườn trên đất nước Việt Nam. Sau một đêm dài, lá cau được tắm gội trở nên thanh khiết và ánh nắng trên lá cau cũng long lanh hơn. Với HMT tinh hoa của sự sống chính là sự trinh khiết, thanh tân. Đặc biệt thân cau được chia làm nhiều đốt như một cây thước. Khi nắng mai rót vào, vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, khi nó tràn trề, nó biến khu thành một viên ngọc lớn.
Tác giả dùng chữ mướt chứ không phải mượt để mô tả sắc xanh của lá. Mướt gợi lên vẻ mượt mà đầy sắc xuân. Ngọc là tinh thể trong suốt vừa có màu, vừa có ánh, lại gợi lên vẻ quý phái. HMT vừa đặc tả vẻ đẹp vườn thôn Vĩ như viên ngọc rời rợi sắc xanh, đang tỏa vào ban mai những sắc xanh mướt, vừa tột cùng hóa, tuyệt đối hóa vẻ đẹp đẽ, quí phái của đối tượng.Từ quá – một từ chỉ mức độ, chính nó khiến cho câu thơ mang âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như bất ngờ nhận ra vẻ đẹp của khu vườn.Khổ thơ khép lại bằng hình ảnh mặt chữ điền. Đây là một hình ảnh gây nhiều tranh cãi. Đó là gương mặt phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình cách điệu hay tả thực.
Đó có thể là khuôn mặt của cô gái thôn Vĩ.Đó là khuôn mặt của chàng trai thôn Vĩ.Khuôn mặt của thi sĩ – Chủ thể trữ tình.Khuôn cửa sổ hình vuông.
Sự chuyển ý từ khổ 1 sang khổ 2 khá đột ngột: đang từ cảnh bình minh thôn Vĩ, tác giả không hề báo trước hay có sự chuẩn bị gì chuyển ngay sang cảnh dòng sông; đang từ tâm trạng bồi hồi, mong đợi, ao ước chuyển sang tâm trạng buồn hiu hắt.Từng câu chữ, hình ảnh, nhạc điệu trong khổ thơ thấm đẫm mặc cảm chia lìa.
Hai câu đầu thiên nhiên như đang chia lìa đôi ngả tạo nên một thực tại phiêu tán. Tất cả như đang rời bỏ: Gió đi một đường, mây đi một nẻo, dòng nước buồn bã trôi…Như vậy, ở đây xuất hiện một hiện tượng phi logic, trái với lẽ thường. Chúng ta thường biết rằng gió mây không thể tách rời, gió thổi mây bay, gió và mây không thể chia tách vì không có gió mây không thể tự di chuyển. Hình ảnh trong hai câu đầu không đơn giản là hình ảnh của thị giác mà chính là hình ảnh của tâm trạng, của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã tách rời những thứ tưởng như không thể chia lìa nổi.
Nỗi buồn từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương Giang hay dòng nước buồn thiu vì đã mang sẵn trong mình một tâm trạng được phả vào từ chính nỗi niềm mặc cảm của thi nhân.
Động từ lay tự nó không tạo được không gian vui, buồn, sao người đọc vẫn thấy thấm đẫm một nỗi buồn hiu hắt. Nó là nỗi buồn phụ họa với gió mây sông nước hay nỗi buồn sông nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp? Có lẽ là cả hai. Dường như hình ảnh hoa bắp lay côi cút bên dòng sông như ẩn chứa thân phận của người thi nhân – thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng. Cảnh và người như có sự hòa làm một.Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ như bị đẩy đi rất xa, nhuốm màu ảo mộng.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
- Trăng là một hình ảnh quen thuộc, trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ thơ Điên không đơn giản chỉ là vẻ đẹp tinh túy và huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Trăng quằn quại, trăng lênh láng, có khi kì quái: “vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”, có khi khêu gợi, lả lơi như một thiếu nữ đa tình Trăng nằm sõng soải trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi; có khi tình tứ Mới lớn lên trăng đã hẹn hò- thơm như tình ái của ni cô.
Trong bài thơ này xuất hiện hai chữ về. Chữ Về thứ nhất là về với Vĩ Dạ, về với thiên đường trần gian Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Chữ Về thứ hai xuất hiện trong hai câu thơ này là về với Hàn Mặc Từ, về trong này.Ở giữa nơi không có niềm trăng và ý nhạc nên HMT đã đặt tất cả hi vọng vào thế giới mộng ảo: Có chở trăng về kịp tối nay? Trăng trở thành nơi bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh của thi nhân.
Nhưng ngay cả nơi bám víu cuối cùng ấy cũng chứa đựng mầm vô vọng. Đại từ phiếm chỉ thuyền ai khiến cho con thuyền trên sông trăng trở nên mỏng manh như một ảo ảnh.
Chữ kịp trong câu thơ chứa đựng lời khẩn cầu thiết tha của thi sĩ. Nếu trăng không về kịp thì tâm hồn đau thương kia sẽ rơi vào tuyệt vọng hoàn toàn.
Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãn Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãnh liệt, biết trân trọng từng phút giây của cuộc đời ngắn ngủi.3. Khổ thơ 3
Ở khổ thơ thứ ba giọng điệu khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Nhịp thơ đến đây trở nên gấp gáp, khẩn khoản hơn.
Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa là hình bóng giai nhân xứ Huế. Điệp từ khách đường xa khiến cho nhịp thơ gấp gáp hơn, hình ảnh càng trở nên mờ ảo.
Vẻ đẹp trinh khiết chính là chuẩn mực cảm quan thẩm mĩ của HMT. Hình ảnh những thiếu nữ trong thơ HMT bao giờ cũng gắn liền với sự sống động của vẻ trinh khiết, xuân tình. Chính vì vậy, hình ảnh khách đường xa đã trở thành trung tâm của bức tranh và cũng là trung tâm của bài thơ. Ta biết đặc điểm của thơ Điên là hình ảnh tân kì, kì dị. HMT thường sử dụng những sắc trắng kì dị để miêu tả vẻ đẹp trinh khiết của giai nhân: Chị ấy đêm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sông trắng nắng chang chang; Chết rồi xiêm áo trắng như tinh.Câu thơ Áo em trắng quá nhìn không ra không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói nhìn không ra mà chính là cực tả sắc trắng ở độ tột cùng, tuyệt đối của HMT.
Mơ tưởng da diết, khắc khoải hơn hết vẫn là dành cho người tình xa hay đau thương nhất vẫn là phải xa lìa người mình yêu.Hai câu cuối với hình ảnh sương khói chỉ mang tính biểu tượng. Giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh đã có một khoảng cách chia lìa về thời gian và không gian khiến cho con người chỉ còn là bóng ảnh nhạt nhòa. Cái nhìn này xuất phát từ tâm trạng của người ngắm cảnh.Câu hỏi cuối chất chứa đầy những khắc khoải, băn khoăn. Đại từ ai hướng tới cả hai đối tượng; người thôn Vĩ và cái tôi trữ tình. Chủ thể trữ tình không biết được tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà hay không?Và chính giai nhân cũng không biết tình cảm của anh ntn?
Chính vì vậy thi nhân rơi vào tuyệt vọng, hoài nghi.Tình ai ở đây còn là tình đời, tình người. Ai biết cuộc đời, tình đời, còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu. Thi nhân đang tồn tại thật mong manh. Và cái tình kia chính là sợi giây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh xa vời quá!