bài 4 :
Huyện Tượng Lâm là địa bàn sinh sống của bộ lạc:
- Là địa bàn sinh sống của bộ lạc Dừa - tức người Chăm cổ, thuộc nền văn hoá Sa Huỳnh.
Vị trí: từ đèo Hải Vân đến đèo Đại Lãnh.
Quan hệ : đoàn kết cùng chống kẻ thù chung là bọn phong kiến phương Bắc. Nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân Tượng Lâm và Nhật Nam được nhân dân Giao Châu ủng hộ. Nhân dân ở Nhật Nam, Tượng Lâm cũng nổi dậy ủng hộ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
bài 5 :
* Hoàn cảnh thành lập:
- Cuối thế kỉ II, nhân dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên, đặt tên nước là Lâm Ấp.
- Các vua Lâm Ấp thường tấn công các nước láng giềng để mở rộng lãnh thổ, rồi đổi tên nước là Cham-pa.
* Quá trình thành lập:
- Từ phạm vi lãnh thổ nhỏ đến phạm vi lãnh thổ lớn hơn: phía Bắc đến Hoành Sơn (huyện Tây Quyển) phía Nam đến Phan Rang. Đổi tên nước là Cham-pa.
Bài 6 :
Lời giải chi tiết
Những thành tựu cơ bản của Cham-pa trong các lĩnh vực:
* Kinh tế: đạt trình độ ngang với các nước xung quanh:
- Nông nghiệp:
+ Biết sử dụng công cụ bằng sắt, dùng sức kéo của trâu bò, biết làm ruộng bậc thang và xe guồng nước.
+ Trồng lúa một năm hai vụ, trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp.
+ Nghề khai thác lâm thổ sản (trầm hương, ngà voi,…) và đánh bắt cá phát triển.
- Thủ công nghiệp: nghề làm gốm khá phát triển.
- Thương nghiệp: Có sự giao lưu, buôn bán với các nước láng giềng.
* Văn hóa:
- Chữ viết: người Chăm đã có chữ viết riêng (từ thế kỉ IV).
- Tôn giáo: Người Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.
- Phong tục, tập quán: ở nhà sàn, ăn trầu cau, tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay biển.
- Nghệ thuật: người Chăm đã sáng tạo ra một nền nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu là các tháp Chăm, đền, tượng, các bức chạm nổi,…
72 Bài 4 :
Nét chính về sự chuyển biến của nền kinh tế và xã hội nước ta trong thời Bắc thuộc:
- Về kinh tế: Nghề rèn sắt vẫn phát triển. Trong nông nghiệp nhân dân ta đã biết sử dụng sức kéo của trâu bò, biết làm thuỷ lợi, trồng lúa một năm hai vụ. Các nghề thủ công cổ truyền vẫn được duy trì, phát triển: nghề gốm, dệt vải và giao lưu buôn bán.
- Về văn hoá: chữ Hán, đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão được truyền bá vào nước ta. Bên cạnh đó, nhân dân ta vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sống theo nếp sống riêng với những phong tục cổ truyền của dân tộc.
- Về xã hội: phân hoá thành ba tầng lớp:
+ Bộ phận giàu có chiếm số ít, bao gồm vua, lạc tướng, bồ chính,... gọi chung là quý tộc.
+ Bộ phận đông đảo nhất là nông dân công xã...
+ Một số ít là nô tì, khổ cực nhất.
- Từ khi bị phong kiến phương Bắc đô hộ, xã hội tiếp tục phân hoá:
+ Tầng lớp thống trị là bọn quan lại, địa chủ người Hán. Tầng lớp quý tộc người Âu Lạc mất quyền lực trở thành những hào trưởng.
+ Nông dân công xã bị phân hoá thành : nông dân công xã (số ít); nông dân lệ thuộc (đa số, do bị mất hết ruộng đất) và nô tì.