Bài làm
Câu 1 :
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm ;
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy ;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Câu 2 :
- Câu nghi vấn được sử dụng trong hai khổ thơ trên: " Người thuê viết nay đâu"
- Tác dụng của câu nghi vấn được sử dụng trong hai khổ thơ trên: vừa dùng để hỏi vấn đề, vừa để bộc lộ lên hình ảnh ông đồ bị mọi người xung quanh lãng quên đi, không được chú ý nữa cùng tâm trạng buồn đau, xót xa của ông đồ. Đồng thời thể hiện nỗi đau, sự tiếc nuối, thương cảm của tác giả đối với ông đồ.
Câu 3 :
- Phép nhân hóa trong hai khổ thơ trên: " Giấy đỏ buồn không thắm/Mực đọng trong nghiên sầu"
- Tác dụng của biện pháp nhân hóa trong 2 khổ thơ trên: Tác giả dùng biện pháp nhân hóa làm cho giấy, mực - những vật vô tri vô giác cũng biết sầu buồn. Nỗi cô đơn hắt hiu của con người khi bị thờ ơ, bỏ quên, không chú ý tới nữa. Cảnh vật tàn tạ, thiên nhiên cũng buồn theo nỗi buồn của con người.
Câu 4 :
Bài làm
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Mỗi khi dịp Tết đến, hoa đào lại nở, thì cũng là lúc thời ông đồ là hoàng kim nhất. Ông được nhiều người thuê viết chữ, câu đối đỏ để trang trí nhà cửa. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, xã hội theo hướng văn minh và phát triển hơn, chữ Nho không còn được trọng, ngày Tế không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra lề cuộc đời, chỉ còn là "cái di tích tiền tuỵ đáng thương của một thời tàn". "Giấy đỏ buồn không thắm/Mực đọng trong nghiên buồn". Giấy - mực đều là những vật vô tri vô giác vì nỗi buồn của con người khi bị thờ ơ, không quan tâm tới. Giấy đỏ không được đụng đến, không được viết lên, nằm phơi ra trở nên bẽ bàng, phai nhạt cả đi, thành giấy đỏ buồn không thắm được. Mực trong nghiên lâu không được mài, không được chấm, kết đọng lại như giọt lệ đen chứa đựng bao tủi sầu nên thành nghiên sầu. Phải chăng tất cả nỗi buồn của giấy và mực đều là nỗi đau thương của ông đồ năm ấy? Nỗi tủi buồn của ông đồ đã lan sang cả giấy lẫn mực. Việc nhân hóa thổi buồn sầu của ông đồ vào giấy mực, nhà thơ đã thể hiện niềm xót thương vô hạn, không thể cứu được một lớp người, một kiếp người, của một nền văn hóa chung. "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài giời mưa bụi bay""Lá vàng" và "mưa bụi bay" là hai hình ảnh tượng trưng cho sự lụi tàn để lại nhiều thương cảm, thương tiếc. Qua đó, ta thấy được nỗi buồn thương của ông đồ cũng như là giấy và mực và thể hiện sự đau xót, nỗi tiếc nhớ của nhà thơ. Đồng thời, cũng thể hiện sự phát triển của văn hóa dân tộc.
* Giấy đỏ không được đụng đến, không được viết lên, nằm phơi ra trở nên bẽ bàng, phai nhạt cả đi, thành giấy đỏ buồn không thắm được. Mực trong nghiên lâu không được mài, không được chấm, kết đọng lại như giọt lệ đen chứa đựng bao tủi sầu nên thành nghiên sầu.=> Câu phủ định.
* Phải chăng tất cả nỗi buồn của giấy và mực đều là nỗi đau thương của ông đồ năm ấy?=> Câu nghi vấn.