+ Để dể hiễu bài toán $CO_2+Ca(OH)_2$ mà $n_{CaCO_3}<n_{Ca(OH)_2}$, tham khảo đồ thị như hình: sục từ từ đến dư $CO_2$ vào $x$ mol $Ca(OH)_2$
Từ đồ thị ta thấy: kết tủa cực đại là $x$ mol khi sục $x$ mol khí, khi sục một lượng $\ge 2x$ mol khí thì kết tủa tan hết (hoàn toàn tạo muối tan $Ca(HCO_3)_2$)
Do đó nếu thu được lượng $y$ mol kết tủa ($0<y<x$) thì có hai giá trị $x_1, x_2$ của $CO_2$, ứng với hai trường hợp.
• Tư duy kiểu khác: nhận thấy $n_{Ca(OH)_2}>n_{CaCO_3}$ nên lượng $Ca$ chênh lệch phải ở trong $Ca(OH)_2$ dư (ứng với TH $x_1$) hoặc $Ca(HCO_3)_2$ (ứng với TH $x_2$)
• Hệ quả: nếu cho biết mol $Ca(OH)_2$ và $CaCO_3$, yêu cầu tính $CO_2$ có hai trường hợp; nếu cho biết mol $CO_2$ và $CaCO_3$ thì có một trường hợp
+ TH1: chỉ xảy ra phản ứng (1). TH2: phản ứng (1) đã xong và phản ứng (2) chưa xong. Do chưa xong nên còn dư $CaCO_3$, "xong" là khi không còn kết tủa
+ Khung xanh lá: từ PTHH thứ (1) tính được mol $Ca(OH)_2$ (1), suy ra $Ca(OH)_2$ là $0,05-0,01=0,04$ mol $=n_{Ca(HCO_3)_2}$