Câu 2:
Các bài thơ trên được gọi là thơ mới vì:
+ Thể thơ tự do
+ Không tuân theo lối vần luật, niêm luật như các thể loại thơ cổ
+ Khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời.
Đoạn văn:
Sau khi giấc mơ của con hổ về quá khứ huy hoàng ở rừng xưa, Thế Lữ đưa nó trở lại thực tại nghiệt ngã tại vườn bách thú. Trong không gian chật hẹp đó, vị chúa sơn lâm cảm thấy tẻ nhạt, đơn điệu, trái với vẻ đẹp sống động,tinh khôi của cảnh rừng ngoài kia. Mặc cho sự sửa sang, chăm sóc cảnh quan dưới bàn tay con người, con hổ coi đó là vẻ đẹp giả dối, nó càng nhớ đến sự phi thường, tuyệt diệu của núi rừng tự tạo hoá. Nó phải chịu đựng hiện thực, thân sống ở khu vườn bách thú nhưng hồn mộng tưởng về với rừng xưa. Qua hình ảnh của con hổ, tác giả không chỉ muốn gửi gắm mong ước của mình mà còn cho cả thế hệ thanh niên thời kì thực dân: muốn được tự do, được giải thoát, giải phóng trong xã hội nô lệ đầy bất công thời bấy giờ. Qua đó, bài thơ " Nhớ Rừng" đã mở đường cho tiếng nói của người dân Việt Nam.
Câu 3:
- Nghị luận hiện đại không phân chia thành các thể văn một cách thật rạch ròi. Nghị luận trung đại gồm nhiều thể phân biệt chủ yếu ở chức năng (chiếu, hịch, cáo,..). Mỗi thể của văn bản nghị luận trung đại có những quy tắc chặt chẽ riêng
- Các văn bản nghị luận trung đại đều là văn bản dịch từ nguyên tác viết bằng chữ Hán, mang văn phong cổ :
+ Từ ngữ cổ.
+ Cách diễn đạt cổ : dùng nhiều điển tích, điển cố, hình ảnh thường giàu tính ước lệ, câu văn biền ngẫu sóng đôi nhịp nhàng (rõ nhất ở các văn bản Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta). Cách diễn đạt trong tác phẩm nghị luận hiện đại thường giản dị, câu văn giống lời nói thường ngày, gần đời sống hơn.
- Văn bản nghị luận trung đại mang đậm dấu ấn của thế giới quan con người trung đại: tư tưởng "thiên mệnh" (mệnh trời) trong bài Chiếu dời đô, đạo "thần chủ" trong bài Hịch tướng sĩ, tư tưởng "nhân nghĩa" mượn từ Nho giáo trong Nước Đại Việt ta, tâm lí sùng cổ (noi theo tiền nhân, tìm khuôn mẫu ở thời đã qua) dẫn đến việc dùng điển tích, điển cố một cách phổ biến...
Câu 4:
Chiếu Dời Đô:
Trình tự lập luận cho việc cần thiết phải dời đô:
- Nêu sử sách bên Trung Quốc làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lý lẽ.
- Soi tiền đề vào thực tế của hai triều đại Đinh, Lê để chỉ rõ thực tế ấy không còn thích hợp với sự phát triển của đất nước, cần thiết phải dời đô.
- Đi tới kết luận: Khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để chọn làm Kinh Đô.
Đây là lời ban bố mệnh lệnh nhưng lại có những đoạn bày tỏ nỗi lòng, có những lời như đối thoại, trao đổi. Ví như "Trẫm rất đau xót về việc đó", đặc biệt là hai câu cuối bài chiếu tại tính chất đối thoại và trao đổi chứ không phải là tính chất đơn thoại, một chiều của người trên ban bố cho kẻ dưới. Và vì thế, lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân, ai ai cũng xúc động.
Hịch Tướng Sĩ:
Lập luận chặt chẽ: Khẳng định việc làm sai trái dẫn đến hậu quả tai hại thông qua những lời phê phán mạnh mẽ đượ đưa ra mộ cách dồn dập :"“Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trông không thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý ngàn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền của tuy nhiều khôn mua được dầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù ; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào "
Lập luận giàu hình tượng, cảm xúc, có sức thuyết phục cao:
Những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm :" uốn lưỡi cú diều, thân dê chó...";
Hình tượng so sánh, cụ thể : “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ"; “có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai..."
Những hình ảnh dễ hiểu : cựa gà trống, áo giáp, mẹo cờ bạc...