C1.
- Âm mưu: nhằm biến VN thành thuộc địa
- Đà Nẵng:
1. Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 – 1859
- Lấy cớ bảo vệ đạo Gia Tô, rạng sáng ngày 1/9/1858, 3000 quân Pháp – Tây Ban Nha nổ sung tấn công Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp chiếm Đà Nẵng rồi kéo quân ra Huế buộc triểu đình đầu hàng, kết thúc chiến tranh.
- Quân dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, anh dung chống trả. Quân Pháp bước đầu thất bại, sau 5 tháng xâm lược, chúng chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà.
Gia định:
- 2/1859, quân Pháp kéo vào Gia Định. Ngày 17/2/1859, chúng tấn công thành Gia Định. Quân triều đình chống cự yếu ớt rồi tan rã.
- Trong khi đó, nhân dân địa phương đã tự động nổi lên đánh giặc khiến chúng khốn đốn.
- Đêm 23/2/1861, quân Pháp mở cuộc tấn công qui mô vào Đại đồn Chí Hòa. Quân ta kháng cự mạnh mẽ nhưng không thắng nổi hỏa lực của địch. Đại đồng Chí Hòa thất thủ. Thừa thắng quân Pháp lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và tỉnh thành Vĩnh Long.
Hiệp ước Nhâm Tuất:
- Ngày 5/6/1862, triều đình Huế kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất.
- Nội dung cơ bản của hiệp ước: Triều đình thừa nhận quyền cai quản của nước Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì và đảo Côn Lôn, mở ba cuar biern Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào buôn bán. Cho phép người Pháp và người Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây, bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 280 vạn lạng bạc, Pháp sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến.
C2
3 tỉnh miền đông:
- Phong trào kháng chiến của nhân dân sôi nổi. Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu của Pháp trên song Vàm Cỏ Đông ( 10/12/1861): Khởi nghĩa do Trương Định lãnh đạo làm địch thất điên bát đảo.
3 tỉnh miền tây:
- Các trung tâm kháng chiến được thành lập ở Đồng Tháo Mười, Tây Ninh, Bến Tre,… với các lãnh tụ nổi tiến như Phan Tôn, Phan Liêm, Nguyễn Trung Trực,… Các nho sĩ dùng thơ văn để chiến đấu như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,…
C3.
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất ( 1873):
- Cuối năm 1872, thực dân Pháp sai lái buôn Đuy-puy gây rối ở Hà Nội. Lấy cớ giải quyết việc này, Gác-no-ê chỉ huy 20 vạn quân Pháp kéo ra Bắc.
- 20/11/1873, Quân Pháp đánh thành Hà Nội. Quân ta do Nguyễn Tri Phương chỉ huy cố gắng cản giặc nhưng thất bại. Đến trưa thành mất, Nguyễn Tri Phương bị thương, và mất.
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai:
- Lấy cớ triều đình Huế vi phạm hiệp ước 1874, ngày 3/7/1882 quân Pháp do Ri-vi-e chỉ huy đổ bộ lên Hà Nội. Ngày 25/4/1882, Ri-vi-e gửi tối hậu thư buộc Tổng đốc Hoàn Diệu nộp thành không điều kiện.
- Không đợi trả lời, quân Pháp nổ sung tấn công. Quân ta chống cự quyết liệt nhưng đến trưa thành mất. Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.
C4. Hiệp ước:
Hiệp ước Hác-măng vào ngày 25/8/1883.
- Nội dung:
Triều đình Huế thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận khỏi Trung Kì, nhập vào Nam Kỳ thuộc pháp, ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh sát nhập vào Bắc Kỳ, buộc triều đình được cai quản vùng đất Trung Kỳ nhưng mọi việc phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở Huế. Công sứ Pháp ở các tỉnh phía Bắc Kỳ thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình, nắm các quyền trị an và nội vụ. Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm. Triều đình Huế phải rút quân đội Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
- Hiệp ước Pa-ta-nốt vào ngày 6//6/1884
- Nội dung: Cơ bản giống hiệp ước Hắc – măng chỉ sửa lại ranh giới Trung Kì nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.
C5. Cần vương
Kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây 13- 7- 1885 ông nhân danh vua Hàm Nghi ra “Chiếu Cần Vương" kêu gọi văn thân và nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước.
- Từ đó phong trào chống xâm lược dâng lên sôi nổi kéo dài đến cuối thế kỷ XIX.
... tự làm nhé