1. Mở bài:
_ Nêu yêu cầu của đề.
2. Thân bài:
_ khổ 1: cảnh hoàng hôn trên biển và hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Khổ 2: sự giàu có của biển cả.
3. Kết bài:
Cảm nghĩ của bản thân.
Bài làm
Thơ ca luôn la tiếng lòng của mỗi nhà thơ. Đọc thơ ca giai đoạn 45- 75, chúng ta được tiếp xúc bức tranh thơ ca muôn màu muôn vẻ. Góp phần không nhỏ làm nên khung cảnh bức tranh thơ, bức tranh của tâm trạng trữ tình ấy là Huy Cận với Đoàn thuyền đánh cá. Bức tranh lao động được nhà thơ khắc họa đẹp vô cùng nhất là thông qua khổ thơ thứ nhất và khổ thơ thứ hai của bài.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đặc sắc nằm trong tập Trời mỗi ngày lại sáng, đánh dấu sự chuyển mình trong sáng tác của Huy Cận. Bài thơ được viết nă m1958, khi tác giả ra thăm vùng mỏ Quảng Ninh và chứng kiến bức tranh lao động của con người nơi đây.
Cảnh hoàng hôn trên biển xuất hiện thật đẹp và đi vào lòng người. Bức tranh chiều hôm thiết tha cảm xúc ấy đã mở ra khung cảnh lao động của con người.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Nghệ thuật so sánh được sử dụng trong câu thơ đầu tạo nên một liên tưởng bất ngờ thú vị. Ông mặt trời vào hoàng hôn buông ấy là quả cầu lửa, quả cầu lửa mang theo nhiệt huyết và dường như là cả khí thế của người dân chài. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là cánh cửa khổng lồ với những con sóng là những chiếc then cài. Hình ảnh trong câu là những hình ảnh chọn lọc, độc đáo và thể hiện một sự cá tính vô cùng vô tận của nhà thơ. Nhưng dẫu vũ trụ bao la huyền bí , có vẻ đẹp kỳ vĩ, tráng lệ thì cũng là sự bao la trong cái gắn bó và ngày một trở nên gần gũi với con người.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đã hiện lên thật đẹp trong hai câu tiếp của bài. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn như đi trong chính ngôi nhà gần gũi, thân thuộc của mình
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Cách dùng từ của Huy Cận thật đắt. Từ “lại” dùng trong câu diễn tả nhịp điệu lao động diễn ra thường xuyên của những con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. CÔng việc lao động quen thuộc và gắn bó với họ mỗi ngày. Khi họ bắt đầu một ngày lao động mới với “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” giúp ta cảm nhận được khí thế, sức mạnh của người lao động làm chủ biển khơi. Hình ảnh " cánh buồm căng vì no gió là hình ảnh thực. “Câu hát căng buồm” là một liên tưởng thú vị- hình ảnh ẩn dụ. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động. Nó có sức mạnh vô hình để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt sóng ra khơi.
Và khổ thơ thứ hai của bài, những con người làm chủ, chinh phục biển khơi cất lên tiếng hát ca ngợi biển đẹp đẽ và giàu có:
“ Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Nghệ thuật liệt kê đã nói cho ta các loài cá phong phú, cá bạc, cá thu tạo nên sự giàu có của biển cả. Nó còn được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi”. Từ hình ảnh thực về những con cá thu bơi nhanh trên biển, mình sáng lấp lánh ánh trăng, tác giả gợi liên tưởng đến hình ảnh “đoàn thoi dệt biển muôn luồng sáng”. Biển không chỉ giàu có mà còn có vẻ đẹp kỳ thú. Từ “ta” trong câu thơ là từ ngữ cất lên đầy tự hào, kiêu hãnh trong suốt bài thơ. Không còn cái tôi nhỏ bé cô đơn mà là cả tập thể đầy sức mạnh. HUy Cận với sáng tác văn học giai đoạn này ngập tràn niềm tin tưởng, ngập tràn ánh sáng hi vọng vào ngày mai.
Hai khổ thơ đầu của Đoàn thuyền đánh cá chính là khúc ca lao động reo vui và xiết bao tự hào. Lời thơ cũng là lời tâm tình, lời ngợi ca, tự hào về vẻ đẹp lao động, ngợi ca con người lao động nhiệt thành, hồ hởi, đêm ngày đóng góp cho quê hương.