* Dàn ý tham khảo
A/. MB :
- Giới thiệu đôi nét về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên.
- Nêu luận đề
B/. TB :
* Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên.
- Thúy Kiều mở lời trao duyên bằng câu đề nghị: “Cậy em…sẽ thưa”
- Lời đề nghị lạ lùng ở cách xưng hô cũng như ở hành động của Kiều đối với Vân, tất cả đều trái với lễ giáo phong kiến ngày xưa.
- Phân tích các từ “cậy”, “chịu lời” để thấy được sự thông minh, sắc sảo, khéo léo của Kiều và tài năng dùng từ của Nguyễn Du.
- Lời Thúy Kiều “thưa” với Thúy Vân.
* Thúy Kiều khẩn cầu và trao kỉ vật cho Thúy Vân.
- Kiều đã dùng những lời lẽ có sức lay động lòng trắc ẩn của con người
+ Thành ngữ chỉ mối quan hệ thân thiết, ruột rà : “tình máu mủ”, “lời nước non”.
+ Thành ngữ chỉ cái chết : “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”.
=> Lời khẩn cầu tha thiết, đầy đau đớn và chua xót.
* nhận xét về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Du
- khả năng ngôn ngữ gợi lên những hình ảnh làm các nhân vật như chuyến động và hiện hữu như ngoài đời
- tính cá thể hóa. Cả đoạn trích là lời Thúy Kiều cùng những giằng xé nội tâm đau đớn. Kiều tỏ ra là người sâu sắc, có ý chi khi trao duyên cho Thúy Vân
C/. KB :
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của Truyện Kiều nói chung và đoạn trích nói riêng.
- Khẳng định vị trí, đóng góp của Nguyễn Du trong nền văn học trung đại Việt Nam.
* Bài làm tham khảo
Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam, ông đã để lại một gia tài văn chương đồ sộ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Đọc văn chương của Nguyễn Du, ta thấy ông " có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời". Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Và ông chính là người tạo nên tuyệt tác Truyện Kiều. Trao
Duyên là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dan dở tình yêu Thúy Kiều và Kim Trọng đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du trước số phận bất hạnh của người phụ nữ cũng như khát vọng hạnh phúc của con người.Trong đó đặc sắc nhất là 14 câu đầu của đoạn trích:
"Cậy em, em có chịu lời,
....
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Nhan đề đoạn trích là "Trao duyên" nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "trao duyên" ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng.
Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:
"Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."
Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. "Cậy" và "nhờ" đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ "nhờ", Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ "cậy", bởi vì từ "cậy" này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ "nhờ" không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ "nhận", tác giả lại dùng từ "chịu" bởi vì khác với từ "nhận", từ "chịu" không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng "lạy" và "thưa" đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời?
Lạy xong, Kiều mở lời giải bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
Thành ngữ "đứt gánh tương tư" có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân định liệu.
Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em:
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."
Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:
"Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
"Sóng gió bất kì" là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ "hiếu" và "tình", Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình.
Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn" , "ngậm cười chín suối" được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính cách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.
Đặc sắc của ngôn ngữ nghệ thuật trong "Trao duyên" là đảm bảo nội dung, tiến trình câu chuyện, sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt những điển cố, điển tích, những câu nói mang tính thường nhật làm tăng sự gần gũi, chân thực, dễ hiểu và xây dựng hình tượng nhân vật nổi bật, sắc nét. Tính gợi tả, gợi cảm luôn được Nguyễn Du đảm bảo trong từng câu thơ, sử dụng từ ngữ chắt lọc nhưng mang nhiều ý nghĩa, để cho độc giả tự có cơ hội dàn trải suy nghĩ, cảm nhận nhân vật. Bút lực sắc bén cùng tư duy ngôn từ nghệ thuật phong phú, đa dạng đã tạo nên dấu ấn "Đại thi hào Nguyễn Du"
Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.
Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.