Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là tác phẩm xuất sắc bậc nhất của văn học trung đại Việt Nam, được xếp vào hàng kinh điển mẫu mực của thể loại truyện thơ Nôm. Với nội dung tố cáo, phản ánh hiện thực xã hội bất công và thương cảm cho những số kiếp con người bất hạnh, đau thương đặc biệt là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc Nguyễn Du đã triệt để bộc lộ được tư tưởng nhân đạo yêu thương, trân trọng con người một cách toàn diện, vừa xót thương, vừa thông cảm thấu hiểu, đồng thời cũng là trân trọng ngợi ca, những phương diện mà trước đây văn học trung đại Việt Nam còn chưa để ý, hoặc mới chỉ manh nha qua một vài tác phẩm, tác giả mà còn chưa được hoàn thiện. Trong tổng thể tư tưởng nhân đạo ấy của Nguyễn Du, thì sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người được ông thể hiện rất rõ qua nhân vật chính là Thúy Kiều, khi xây dựng hình tượng nhân vật lý tưởng với vẻ đẹp toàn diện cả nhân cách lẫn phẩm chất. Bên cạnh lý tưởng về hồng nhan, thì Nguyễn Du cũng có ước mơ về hình tượng người anh hùng lý tưởng thông qua việc khắc họa chân dung nhân vật Từ Hải - người đàn ông có vị trí quan trọng trong cuộc đời Kiều. Vẻ đẹp ấy được tác giả bộc lộ rất rõ thông qua đoạn trích Chí khí anh hùng.
Đoạn trích nằm từ câu 2213 đến câu 2230 của Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Về phần Thúy Kiều sau mối tơ duyên với Thúc Sinh bị Hoạn Thư cắt đứt bằng thủ đoạn tinh vi, nàng bỏ trốn để thoát khỏi cảnh tủi nhục và đau thương. Nàng nương nhờ sư Giác Duyên và được gửi đến sống ở nhà Bạc Bà, rồi bị ép gả cho cháu bà ta là Bạc Hạnh, những tưởng dẫu không mặn mà gì với kẻ này nhưng cũng coi như được yên thân, thì ngờ đâu sau ít lâu chung sống Bạc Hạnh đã nhẫn tâm bán nàng vào kỹ viện lần nữa. Cuộc đời Kiều sau khi bước qua hết đau thương này đến bi kịch khác, trái tim của nàng đã dần nguội lạnh, cuộc sống rơi vào cảnh tăm tối và bế tắc vô cùng. Đúng lúc này Từ Hải, người vốn mến mộ danh tiếng Kiều đã lâu xuất hiện cứu Kiều ra khỏi chốn lầu xanh nhơ nhuốc, cho nàng một cuộc sống điền viên vợ chồng đúng nghĩa. Đang lúc tình chàng ý thiếp nồng nàn, thì Từ Hải lại muốn ra đi làm nghiệp lớn vậy nên mới có cảnh đối đáp chia tay trong Chí khí anh hùng.
Có thể nhận xét rằng Từ Hải và Thúy Kiều đích thị là trai anh hùng gái thuyền quyên, đôi bên ngay từ lần gặp đầu tiên đã có những rung động sâu sắc, thấu hiểu lẫn nhau. Cũng có thể nói, trong số những người đàn ông bước qua đời Kiều thì Từ Hải chính là người đã cho Kiều được những ngày tháng hạnh phúc vẹn toàn nhất, không giống như mối tình đầu sớm tan vỡ với chàng Kim hay mối tình lắm oan trái với chàng Thúc. Ở Từ Hải ta thấy toát lên khí khái mạnh mẽ, sẵn sàng bảo bọc che chở được cho Thúy Kiều khỏi tai ương, khổ hạnh, thế nên chỉ khi ở bên cạnh Từ Hải Kiều mới thực sự được yên lòng, hưởng dụng cuộc sống. Tuy nhiên cùng với cái “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài” của mình thì Từ Hải ắt không thể chịu cuộc sống bó gối hưởng thụ ôn hương nhuyễn ngọc giống Thúc Sinh, hay việc trông đợi công danh như Kim Trọng được. Sự tài năng, mạnh mẽ và khí khái anh hùng đã thôi thúc Từ Hải tạm chia xa với Kiều để đi làm nghiệp lớn, trả món nợ công danh cho xứng với bậc trượng phu. Thế nên có thể rằng đối với lời nỉ non “nửa năm hương lửa đương nồng” của Kiều khi cho rằng khoảng thời gian hạnh phúc sao ngắn ngủi, thì đối với Từ Hải 6 tháng an yên bên mỹ nhân mà công danh vẫn dậm chân tại chỗ là quá dài. Vậy nên chàng đã nhanh chóng “thoắt đã động lòng bốn phương”. Một từ “thoát” đã đủ bộc lộ được quyết tâm, sự dứt khoát của Từ hải với việc ra đi lập nghiệp, bên cạnh đó mấy chữ “động lòng bốn phương” lại diễn tả cái tráng chí cao đẹp mang tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Thêm hai chữ “trượng phu” lại càng bộc lộ niềm yêu, niềm trân trọng của Nguyễn Du đối với Từ Hải, bộc lộ ước mơ, lý tưởng của tác giả về một người anh hùng toàn diện hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao đẹp, tráng chí bốn phương, có hoài bão lớn, thực hiện được công bằng luân lý của xã hội,... Bên cạnh đó tầm vóc và suy nghĩ rộng lớn của Từ Hải còn bộc lộ thông qua cái cách mà chàng hướng ánh mắt ra xa “trông vời trời bể mênh mang”, thể hiện khát vọng mãnh liệt vươn ra thế giới, đồng thời hành động cực kỳ dứt khoát, mau lẹ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”, lại càng thể hiện quyết tâm làm nghiệp lớn của con người phi thường.
Đối với những lời xin đi theo nâng khăn sửa túi của Thúy Kiều, mỹ nhân bầu bạn, Từ Hải lại không cho đó là chuyện nên làm, mà nhẹ nhàng khuyên giả, đánh thức sự thấu tình đạt lý trong Kiều khi hỏi nàng rằng “Tâm phúc tương tri/Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Trước là trách Kiều vốn đã là vợ chồng bấy lâu, thấu hiểu lẫn nhau nhưng vẫn chưa thật thấu hiểu lòng mình, vẫn không thoát khỏi tâm trạng thường tình nhi nữ, để tình cảm lấn át lý trí, cản trở công danh. Nhưng đồng thời cũng là lời động viên an ủi Kiều hãy nghĩ thông suốt, để sao cho vợ chồng đồng lòng, nàng làm hậu phương, cho chàng thành chí lớn. Sau đó tiếp tục giải thích, bộc lộ tráng chí của bản thân qua những câu thơ:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Như vậy có thể thấy rằng lần dứt áo ra đi này của Từ Hải là quyết tâm phải làm nên công danh vĩ đại, những từ “mười vạn tinh binh”, “dậy đất”, “rợp đường”, đều thể hiện ước mơ về những chiến công hiển hách, lẫy lừng, gợi tả khí thế hùng tráng, huy hoàng của người anh hùng. Bên cạnh đó “làm cho rõ mặt phi thường” lại thể hiện sự tự ý thức về khả năng, tầm vóc phẩm chất xuất chúng của Từ Hải. Đồng thời câu “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” là lời hứa của Từ Hải dành cho Thúy Kiều, để làm yên lòng nàng, mong nàng cứ an phận một lòng chờ mình lập công danh sự nghiệp. Hơn thế nữa ta cũng thấy Từ Hải là một người biết trông xa nghĩ rộng, khi chàng nói với Kiều:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”
Bản thân Từ Hải ý thức được tầm vóc và tài năng của bản thân, đồng thời cũng nhận định một cách khách quan rằng hiện tại chàng đang không có gì trong tay, việc vướng bận nữ nhi thường tình chỉ càng khiến chàng phân tâm. Thêm vào đó Thúy Kiều phạn liễu yếu đào tơ việc theo sóc, bôn ba không phải là chủ ý hay, nàng làm sao chịu được cảnh “bốn bể không nhà”, lang thang đây đó, chinh chiến nhiều nơi, đến lúc ấy không chỉ nàng khổ, mà bản thân Từ Hải cũng không thể yên lòng làm nghiệp lớn. Vậy nên lựa chọn tốt nhất là để Kiều yên vị ở nhà chờ chàng, làm hậu phương vững chắc, để Từ Hải càng có thêm ý chí quyết tâm phấn đấu, không phụ lòng thiên hạ, cũng chẳng phụ lòng giai nhân. Điều đó bộc lộ qua lời hứa hẹn “Đành lòng chờ đó ít lâu/Chầy chăng là một năm sau vội gì”, bộc lộ lòng quyết tâm, ý chí mạnh mẽ nhanh chóng làm nên công danh sự nghiệp, chứ quyết không lằng nhằng dây dưa.
Sau khi bộc bạch, khuyên nhủ, Từ Hải từ biệt Thúy Kiều và dứt áo ra đi, câu thơ “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” là dụng ý thấu đáo của tác giả về công danh lẫy lừng của tác giả về sau. Việc lấy con chim bằng - loài chim cưỡi gió đạp sóng muôn nghìn dặm để diễn tả vẻ oai hùng, phi thường của người anh hùng Từ Hải, thể hiện sự trân trọng, ca ngợi tráng chí mạnh mẽ, kỳ vĩ sánh ngang tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Đây là lúc chim bằng quạt cánh bay lên cùng mây gió, cũng là lúc người anh hùng ra đi tạo lập công danh hiển hách, vang danh thiên hạ, không phụ lòng núi sông.
Hình tượng Từ Hải của Nguyễn Du so với Từ Hải trong Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân hay trong truyện Vương Thúy Kiều của Dư Hoài là một cải tiến nghệ thuật mới mẻ và đầy ý vị. Nguyễn Du đã khéo léo hình tượng hóa nhân vật Từ Hải trở thành một người anh hùng với những vẻ đẹp lý tưởng, toàn diện, có giấc mộng kiến lập sự nghiệp vĩ đại, sự dứt khoát trong cách cư xử, sự thấu tình đạt lý rất phù hợp và xứng đôi với người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều. Từ đó mối tình Kiều - Hải càng trở nên đẹp đẽ, tô đậm tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du trong tác phẩm, ít nhất thì Vương Thúy Kiều bất hạnh nhưng cũng có lúc được hạnh phúc, được nhận những thứ xứng đáng với mình, cuộc đời nàng cũng có những lúc tươi đẹp thăng hoa, dẫu rằng để được như thế cái giá nàng phải trả trước và sau là quá đắt đỏ.