Đáp án đúng:
Phương pháp giải:
- Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: cảm nhận đoạn thơ, nhận xét về chất liệu văn học được sử dụng.
- Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.Giải chi tiết:I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Nêu khái quát chung về văn bản “Đất nước”: thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Nguyễn Khoa Điềm viết tác phẩm này khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta đang ở thời kì cuối, rất gian khổ khốc liệt nhưng chiến thắng đã cận kề. Ở thời điểm như vậy, tác giả đã phóng tầm mắt của mình suốt chiều dài lịch sử, chiều rộng không gian địa lý để suy ngẫm về đất nước, về dân tộc. Qua tác phẩm nói chung và đoạn thơ trên nói riêng, ông muốn khẳng định một chân lý bất biến “ Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”
- Giới thiệu về đoạn trích.
II. Thân bài
1. Cảm nhận về đoạn thơ:
a. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” thể hiện qua những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”
– Nghệ thuật liệt kê (liệt kê những địa danh), sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân.
+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử.
+ Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.
+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi.
+ Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
à Khi nói về địa lí của đất nước mình, nhà thơ đã không lặp lại một thói quen là nêu lên sự trù phú, đẹp tươi của dải đất này với “mênh mông biển lúa”, với “mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”… Nhà thơ chú ý nhiều đến những miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng thật nôm na, dân dã, nói với ta nhiều điều về cuộc sống của những người cần lao
- Mỗi danh lam thẳng cảnh được nhắc tới đều ẩn sau đó một câu chuyện, một điển tích thấm thía mà sâu xa: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái,…Nó nhắc nhở mỗi chúng ta về những truyền thống, những tình cảm tốt đẹp của dân tộc: tình cảm vợ chồng, hiếu học, lòng yêu nước,…
- Cách diễn đạt gần gũi, dân dã với thể thơ tự do, gần với lời ăn tiếng nói hang ngày của nhân dân, sử dụng chất liệu dân gian và lối lập luận quy nạp
b. Sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
– Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
– Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc.
è Ta nhận thấy những nét mới mẻ trong nhận thức nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điểm về đất nước mà điểm tựa của nó chính là tư tưởng: “Đất nước của nhân dân”
2. Nhận xét về chất liệu văn học được sử dụng:
Tác giả sử dụng chất liệu văn học dân gian rất phong phú khiến cho đoạn thơ có sức sống, sự hấp dẫn đặc biệt:
- Nhiều bài ca dao, truyện cổ tích, những câu thành ngữ, tục ngữ đã được huy động:
+ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu → sự tích núi Vọng Phu.
+ Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái → Sự tích hòn Trống Mái.
+ Truyện Thánh Gióng, truyền thuyết Hùng Vương, núi bút, non nghiên, Vịnh Hạ Long,…
→ Đóng góp của tác giả đã đưa vào thơ Việt Nam chất liệu văn hóa phong tục, tạo ra một cách nhìn mới về đất nước nhưng không đánh mất đi sự gần gũi, thân thuộc.
- Chất liệu văn hóa dân gian ở đoạn trích này gợi ấn tượng vừa quen thuộc vừa mới lạ:
+ Quen thuộc vì những hình ảnh, chi tiết trong văn hóa phong tục dân gian rất gần gũi với con người Việt Nam.
+ Mới lạ vì trong thơ nói riêng và trong văn học nói chung chưa có ai nói về đất nước bằng cách khai thác chất liệu văn hóa dân gian này.
- Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam.
+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"
à Tác dụng:
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
- Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn học dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại"
⇒ Sáng tạo của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mới mẻ, độc đáo, góp phần làm phong phú cách thể hiện Đất Nước. Đem đến cho Đất Nước một cách hiện diện hoàn toàn khác nhưng lại thân thuộc, gần gũi trong trái tim quần chúng nhân dân.
III. Kết bài:
- Khái quát lại vẻ đẹp của đoạn thơ, tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và chất liệu văn học phong phú được tác giả vận dụng sáng tạo.
- Nêu cảm nhận của bản thân.