Đáp án đúng:
                    Phương pháp giải:
                
                Vận dụng những kiến thức đã học về tác phẩm Vợ chồng A Phủ kết hợp với kỹ năng viết bài văn nghị luận văn học dạng đề phân tích đoạn trích văn xuôiGiải chi tiết:A. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Vị trí: Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại VN (gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại, tiêu biểu là văn xuôi hiện thực)
- Phong cách nghệ thuật:
+ Thiên về diễn tả những sự thật của đời thường
+ Vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng
+ Lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với vốn từ vựng giàu có
-> Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Quê quán: huyện Thanh Oai- nay thuộc thành phố Hà Nội
-> sinh ra và lớn lên ở quê ngoại nay là quận Cầu Giấy- Hà Nội
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ
* Xuất xứ: in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1954), được tặng giải Nhất- Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955
* Hoàn cảnh sáng tác: 1952- tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
B. Phân tích đoạn văn bản
II. Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích
1) Tóm tắt phần đầu của truyện + giới thiệu tình huống để dẫn đến đoạn văn bản
- Sinh ra và lớn lên ở vùng núi cao Hồng Ngài dưới chế độ phong kiến miền núi, Mị là cô gái có nhan sắc rực rỡ, có tài năng thổi sáo và có một tâm hồn đẹp: hiếu thảo, yêu tự do, tự tin vào khả năng lao động của bản thân…
- Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ và vì hủ tục cướp vợ mà Mị đã bị lừa bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Suốt mấy tháng trời đêm nào cũng khóc mà không nguôi ngoai được nỗi khổ đau, Mị hái lá ngón định tự tử, nhưng vì thương cha mà không đành
- Những đày đọa về thể xác ở chốn địa ngục trần gian đã khiến Mị tê liệt về tinh thần, “mỗi ngày Mị càng không nói”, và “cũng không nghĩ ngợi nữa”. Mị giống như con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa, kiếp người bị biến thành kiếp vật tăm tối nặng nề.
- Trong đêm tình mùa xuân, ý thức đã hồi sinh, tạo nên một sức sống mãnh liệt ở Mị. Nhưng ý muốn đi chơi của Mị đã bị A Sử vùi dập phũ phàng, A Sử trói đứng Mị vào góc nhà một cách tàn nhẫn, và rất có thể sẽ bị bỏ quên đến chết nếu không có chuyện A Sử bị thương và Mị được cởi trói để đi hái lá thuốc cho chồng…
2) Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích
a) Sự tê liệt: 
Sự hồi sinh bị vùi dập phũ phàng trong đêm tình mùa xuân năm trước đã khiến Mị lại rơi vào trạng thái chết tinh thần, thậm chí còn nặng nề và đau đớn hơn trước:
+ “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn… “Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa hơ tay hơ lưng không biết bao nhiêu lần”, Mị chìm vào trạng thái vô tri, vô cảm “chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”. Cô chỉ quan tâm đến ngọn lửa, để xua đi cái lạnh lẽo cô đơn của đời mình. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, đã đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp, “nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước” bởi “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo”.
+ A Phủ vốn là người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, được giao việc “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ở ngoài gò ngoài rừng”. Khi đó, đang đói rừng, hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa. A Phủ trong lúc trông bò ngựa vì mải mê bẫy nhím đã để hổ bắt mất một con bò. Anh bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột trong góc nhà, chờ khi nào bắn được hổ mới tha, nhưng dấu vết hổ không tìm thấy, A Phủ có thể sẽ bị trói đến chết… Trong những ngày A Phủ bị trói, mỗi đêm ra bếp sưởi, phù phù thổi lửa, A Phủ lại mở mắt nhìn, Mị thấy “mắt A Phủ trừng trừng” mới biết là anh ta còn sống. Nhưng Mị hoàn toàn dửng dưng, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”, thậm chí “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Một phần vì cái cảnh trói người đến chết ở nhà thống lí vẫn thường xảy ra. Một phần vì sự tê dại của tâm hồn Mị đã lên đến đỉnh điểm.
b) Sự thức tỉnh
* Nguyên nhân
  Đêm nay, cũng như bao đêm khác, khi trong nhà đã ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, bắt gặp đôi mắt A Phủ cũng vừa mở. Nhưng hôm nay, Mị chợt thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Một con người vốn can trường là thế, trong đêm tình mùa xuân năm xưa, dù bị đám trai làng xô vào đánh, vẫn quỳ chịu đòn “chỉ im như cái tượng đá”, thế mà lúc này vẫn phải chảy tràn những giọt nước mắt đau đớn, bất lực, uất hận. Dòng nước mắt ấy đã vô tình làm hồi sinh tâm hồn đóng băng của Mị. Nói như nhà văn Nam Cao “nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”- sức mạnh của nó còn lớn hơn nhiều so với những tác nhân hơi rượu và tiếng sáo của lần hồi sinh năm trước. Nó khiến Mị từ cõi quên đã trở về với cõi nhớ, từ cõi vô thức đã sống lại ý thức.
* Diễn biến tâm trạng
-1 “Dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ đã khơi gợi một trường liên tưởng khiến kí ức đau khổ sống lại “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị thấy A Phủ sao giống mình đến thế!
+ Mị và A Phủ cùng là nạn nhân của gia đình Pá Tra, là những chàng trai cô gái ưu tú của núi rừng Tây Bắc và lần lượt bị biến thành người lao động không công- một là con dâu gạt nợ, một là người ở gạt nợ.
+ Cả hai cùng bị bố con Pá Tra đày đọa về thể xác, cùng bị trói đứng trên cây cột trong góc nhà. Chỉ khác là Mị bị trói bằng dây đay- sợi dây do chính tay Mị tước, còn A Phủ bị trói bằng dây mây- cũng là những sợi dây cho chính tay anh chuẩn bị; Mị chỉ bị trói có một đêm- là đêm tình mùa xuân, còn A Phủ đã trải qua nhiều đêm- những đêm đông buốt lạnh.
+ Cả hai cùng mang nỗi đau đớn về tinh thần, cùng phải chảy tràn những giọt nước mắt tủi khổ bất lực, mà không lau đi được
-> Mị từ chỗ xót xa cho mình, từ nỗi thương thân mà thương cho người trong sự đồng cảnh và đồng cảm…
-2 “Hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ là dấu hiệu của cái chết đang đến rất gần (liên hệ người vợ nhặt). Thần Chết đã bắt đầu những nét vẽ ghê rợn trên mặt anh, chỉ còn đôi mắt và dòng nước mắt đau đớn bất lực kia là dấu hiệu của sự sống. Mị nhớ đến người đàn bà ngày trước ở nhà này cũng bị bắt trói đến chết. Rồi Mị phán đoán “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Câu văn ngắn mà lặp lại đến 5 lần từ “chết” như một nỗi ám ảnh về cái chết vô cùng đau đớn, tội nghiệp. Và Mị bừng tỉnh “Chúng nó thật độc ác”.
-3 Từ sự liên tưởng tương đồng, những so sánh tương phản giữa bản thân Mị và A Phủ chợt xuất hiện một cách tự nhiên:
+ Về bản thân:
. “Ta là thân đàn bà”- Mị tự nhận thức về sự thua thiệt do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nam quyền ăn sâu trong tiềm thức
. Lại đã bị bắt về trình ma- là thân phận con dâu gạt nợ, linh hồn đã bị con ma của gia đình thống lí cai quản nên không có cơ hội giải thoát -> kết cục tất yếu là “chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhận thức này lại là sự ăn sâu của tư tưởng thần quyền do giai cấp thống trị gieo rắc
-> Mị đang sống những chuỗi ngày không đáng sống nên cái chết thậm chí còn là sự giải thoát.
+ Còn A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh và ưu tú, chỉ là người ở gạt nợ nên vẫn còn cơ hội được tự do
-> cái chết của A Phủ, với Mị, là phi lí và đáng tiếc “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đến đây, tình thương người đã lớn hơn cả nỗi thương thân. Mị cứ mải nghĩ ngợi đến mức “đám than đã vạc hẳn lửa”, Mị cũng không hay biết.
-4 Mị đã tự trải nghiệm qua một tình huống tưởng tượng “có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc ấy  bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Đó sẽ là cái chết đến từ từ trong tận cùng đau đớn- chết đau- nỗi đau thể xác trong những vòng dây trói siết lại như dứt từng mảnh thịt, chết đói và chết rét. Nhưng ngay cả khi nghĩ đến kết cục ấy, Mị cũng không thấy sợ…
-5 Tình thương đã đã thôi thúc Mị quyết định hành động táo bạo. Vì đám than đã vạc hẳn lửa nên trong nhà tối bưng, bóng tối trở thành đồng minh hậu thuẫn Mị. Mị “rón rén” bước lại, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”… Khi Mị cắt đi sợi dây trói A Phủ cũng là lúc cô dám dũng cảm cắt đi sợi dây ràng buộc cuộc đời mình với nhà thống lí, cùng lúc chống lại các thế lực cường quyền và thần quyền.
-6 Nhưng khi “gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng”. Tình thương người đã được giải tỏa, chỉ còn lại nỗi thương thân, nó trở thành nỗi sợ hãi cứ lớn dần lên…  A Phủ vùng chạy đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối. Chỉ một câu văn ngắn mà đứng độc lập thành một đoạn văn, cho thấy sự dồn chứa trong đó rất lớn. Đó là khoảnh khắc mà trong Mị diễn ra sự đấu tranh gay gắt. Ở lại là chờ đợi cái chết khủng khiếp đang đến rất gần. Còn ra đi là sự liều lĩnh dám đối mặt với cường quyền và thần quyền. Nỗi sợ hãi ở Mị lúc này không phải là hèn yếu, mà trái lại, nó thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực, tiếp cho Mị sức mạnh để vùng thoát, chạy theo A Phủ, thay đổi số phận của mình.
-6 Nhưng khi “gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng”. Tình thương người đã được giải tỏa, chỉ còn lại nỗi thương thân, nó trở thành nỗi sợ hãi cứ lớn dần lên…  A Phủ vùng chạy đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối. Chỉ một câu văn ngắn mà đứng độc lập thành một đoạn văn, cho thấy sự dồn chứa trong đó rất lớn. Đó là khoảnh khắc mà trong Mị diễn ra sự đấu tranh gay gắt. Ở lại là chờ đợi cái chết khủng khiếp đang đến rất gần. Còn ra đi là sự liều lĩnh dám đối mặt với cường quyền và thần quyền. Nỗi sợ hãi ở Mị lúc này không phải là hèn yếu, mà trái lại, nó thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực, tiếp cho Mị sức mạnh để vùng thoát, chạy theo A Phủ, thay đổi số phận của mình.
-8 A Phủ dù ở tình trạng kiệt sức, không biết có đi nổi không, và cũng không biết sẽ đi đâu vì anh được giải cứu một cách bị động, nhưng vẫn đáp lời bằng một câu nói gọn chắc, đầy tự tin và mạnh mẽ “Đi với tôi”, đã truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho Mị. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” như chấp chới những cánh bay mở đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá để người con dâu gạt nợ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui… Một người có sức mạnh thể chất, một người chỉ có sức mạnh tinh thần đã nương tựa vào nhau trong thời khắc đặc biệt nhất của số phận.
-> Sau đây, Mị và A Phủ đã tới Phiềng Sa, nên vợ nên chồng cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc, họ còn tham gia du kích để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, và quay về giải phóng bản làng quê hương.
3) Tổng hợp đánh giá
a) Nhân vật Mị
  Đoạn trích đã cho thấy số phận khổ đau và đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật- sự trỗi dậy, hồi sinh của sức sống tiềm tàng. Dù là chỉ là tự phát, thì hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và cùng chạy trốn cũng có ý nghĩa của sự tháo cũi sổ lồng, vỡ bờ vì quá tức nước. Hành động đó còn có ý nghĩa thức tỉnh những thân phận khổ đau trong xã hội cũ
   Mị có điểm tương đồng với Chí Phèo của NC, trong hoàn cảnh bị vùi dập cả về thể xác lẫn tinh thần, vẫn không đánh mất đi hoàn toàn bản chất người tốt đẹp. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật, như ngọn lửa âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ cần một trận gió là nó có thể bùng cháy mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ, nhưng cái sức mạnh bên trong con người mới là yếu tố quyết định sức sống của Mị
b) Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc
- Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật. Thế giới nội tâm ấy được Tô Hoài khám phá, miêu tả một cách tự nhiên, sinh động rất hợp với qui luật tâm lý, quy luật đời sống tình cảm của con người. 
- Giọng kể của nhà văn có lúc hòa vào dòng tâm tư nhân vật, vẽ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật. Có thể thấy Tô Hoài miêu tả và khám phá đời sống nội tâm của nhân vật không chỉ bằng cảm quan nghệ sĩ mà còn bằng cả tấm lòng mình.
III. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn gửi gắm qua nhân vật
- Nhà văn đã thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi và thái độ căm phẫn mãnh liệt trước các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống của con người
- Tác giả cũng khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu, con người cũng không mất đi khát vọng tự do và sống hạnh phúc
- TH đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động đi từ tự phát (vỡ bờ vì quá tức nước, tự cứu mình khi bị đẩy đến bờ vực của cái chết) sang tự giác (đến với cách mạng), từ tăm tối đau thương vươn ra ánh sáng. Khám phá ra con đường ấy bởi Tô Hoài đã thấy được khát vọng đấu tranh với định mệnh, số phận khiến những người dân nghèo từ “cam chịu” trở thành “thức tỉnh”, từ “tồn tại” họ đã “sống” với phẩm chất tốt đẹp và khát vọng mãnh liệt nhất.