1:Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.
2."Chuồn chuồn bay thấp mưa ngập bờ ao,
Chuồn chuồn bay cao mưa rào lại tạnh"
Cơn dằng đông, vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng nam, vừa làm vừa ăn
Vàng mây thì gió, đỏ mây thì mưa.
Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
Mặt trời có quầng thì hạn, mặt trăng có tán thì mưa.
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên.
Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa
Kiến đen tha trứng lên cao
Thế nào cũng có mưa rào rất to
Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa
3.
Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
4. Hình 1,2
5.Hình 3( chữ hơi xấu )