Chủ nghĩa nhân đạo là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp, lòng yêu thương, ưu ái đối với con người và thân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Từ sự cảm thông xót xa cho số phận dân đen con đỏ trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đến thân phận đoạn trường chìm nổi 15 năm của nàng Kiều của Nguyễn Du hay vẻ đẹp người phụ nữ được ngợi ca, trân trọng, nâng niu trong thơ Hồ Xuân Hương, “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn… Tất cả tạo nên một cảm hứng lớn trong nền văn học dân tộc. Văn học Việt Nam 1930 – 1945 cũng không nằm ngoài dòng chảy chính trị.
Hiện thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng với muôn nghìn cay đắng, bất công đặc biệt với những người thấp cổ bé họng dưới đáy xã hội. Trước bao nỗi thống khổ đó, người nghệ sĩ không thể dửng dưng, đứng ngoài cuộc mà họ dùng cây bút của mình, đưa những mảnh đời đáng thương tội nghiệp vào văn học. Họ bày tỏ sự cảm thông, nỗi thương xót cho những tình cảnh khốn cùng, cuộc sống cơ cực cả về vật chất lẫn tinh thần của con người. Cuộc sống của người nông dân hiền lành, chân chất như lão Hạc, chị Dậu phải chịu đói khổ cơ cực, bị bủa vây bởi sưu thuế, cái đói và miếng ăn. Ba ngày sưu thuế diễn ra là ba ngày kình hoàng, gây bao cảnh li tán, tan nát cửa nhà. Nó trở thành nỗi ám ảnh trong lòng độc giả, phơi bày bộ mặt bản chất ăn cướp, tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến ở nông thôn Việt Nam.
Mở đầu tác phẩm “Tắt đèn” là không khí căng thẳng, ngột ngạt của làng quê trong những ngày sưu thuế. Tiếng trống mõ, tù và inh ỏi, tiếng thất lạc, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nếu chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Thế rồi người mẹ ấy phải dứt ruột, thắt gan bán đứa con bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế. Đã thế vì hai đồng bảy bạc sưu của một người đã chết từ lâu mà anh Dậu bị đánh đập, cùm kẹp khổ sở, đau đớn. Lão Hạc của Nam Cao không bị sưu thuế dồn ép nhưng cũng khốn khổ. Cái đói dồn đẩy, lão Hạc phải bán đi “cậu vàng” - kỉ vật thiêng liêng của người con để lại. Đó cũng là hi vọng mong manh ngày con trai lão trở về. Cuộc sống khổ cực, cái nghèo khiến cho tình yêu của con trai lão Hạc tan vỡ, phải bỏ đi làm đồn điền cao su không biết sống chết ra sao. Lão Hạc mất con, những tưởng số phận đã buông tha cho lão nhưng rồi bao nhiêu bi kịch cứ liên tiếp xảy ra với lão Hạc. Lão Hạc ốm, mùa màng thất bát, lão không còn gì để ăn. Lão Hạc chỉ ăn khoai, rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc. “Lão Hạc sống lay lắt, mòn mỏi và buồn thảm, lão sống để mà chờ đợi cái chết”.
Nhà văn không những cảm thông với số phận của những con người dưới đáy xã hội mà còn có những cảnh ngộ éo le, bị khinh rẻ và bị chà đạp. Hồng là chú bé mồ côi cha, phải sống xa mẹ, sống bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của họ hàng. Mẹ chú là một người phụ nữ trẻ, đẹp, khao khát hạnh phúc nhưng lại phải lấy một người mình không yêu, nghiện ngập. Khi chồng chết, mẹ cậu vì “cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. Nỗi đau tinh thần dai dẳng ấy cũng khủng khiếp không kèm phần so với những đòn roi mà anh Dậu phải gánh chịu, “sống mòn” của lão Hạc.
Bởi vậy, các nhà văn cực lực lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người. Đó là bọn cai lệ, cường hào, lý trưởng vì tiền sưu thuế mà đánh đập, hành hạ giã man anh Dậu - một con người đang ốm nặng tưởng chừng không qua khỏi. Chúng cậy quyền thế, hung bạo bắt bớ người dân vô tội. Tiếng kêu uất ức của chị Dậu vang lên thảm thiết là một tiếng nói tố cáo lớn của nhà văn Ngô Tất Tố. Bên cạnh những thế lực hữu hình đó còn có các thế lực vô hình như sưu cao, thuế nặng, thể chế áp bức bóc lột con người, là bão lũ thiên tai, cái đói… chúng như những sợi dây thòng lọng cứ bủa vây, siết chặt lấy người nông dân, đẩy họ vào bước đường cùng. Cái bất công ở chỗ người nông dân cũng phải nộp sưu cho người chết, bão lũ, thiên tai hoành hành khiến cho mùa mang mất trắng, nghề thuyền thống bị mai một kéo theo đó là cái đói, là ốm đau bệnh tật.
Xã hội thực dân phong kiến còn có những định kiến xã hội, hủ tục lạc hậu, ích kỉ cá nhân làm chia rẽ tình mẹ con, gia đình li tán. Nỗi uất hận trào dâng khiến cho cậu bé Hồng có một khát khao mãnh liệt “giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẫu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.
Sống trong khổ đau, trong bất công nhưng không vì thế mà con người trở nên xấu xa, bất chấp thủ đoạn mà sống. Không, chính hoàn cảnh ấy là một thứ thuốc thử, càng làm tôn thêm những phẩm chất tốt đẹp của con người. Lão Hạc là một người nông dân lương thiện, một người cha giàu đức hi sinh, lão thắt lưng buộc bụng, sống khổ sống sở, bòn từng đồng xu hoa lợi từ vườn cho con. Trong bước đường cùng, đứng trước giữa sự lựa chọn muốn sống thì phải thủ tiêu nhân cách, muốn giữ chọn nhân cách thì phải chết. Lão Hạc đã chọn cái chết vật vã, đau đớn hàng giờ liền cho nhân cách sống mãi. Đó cũng chính là phẩm chất cao đẹp của người nông dân Việt Nam được nhà văn Nam Cao khám phá, thể hiện.
Chị Dậu là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trước cách mạng. Chị yêu chồng, yêu con rất mực. Thấy chồng bị đánh đập, chị đau đớn xót xa, rồi tận tình chăm sóc. Phải bán con chị như đứt từng khúc ruột. Có người mẹ nào không đớn đau khi bán đứa con mình mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, nuôi nấng từng ngày? Dẫu bị chà đạp, đánh đập nhưng chị không nhẫn nhịn, cam chịu, giọt nước tràn li, ẩn dấu trong tâm hồn chị là sức mạnh phản kháng, chống lại áp bức bất công. Chị Dậu giống như bông sen trong tanh hôi mùi bùn mà vẫn toả hương thơm ngát.
Nguyên Hồng không viết về người nông dân như Nam Cao hay Ngô Tất Tố. “Những ngày thơ ấu” là một bài ca ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp, là những kỉ niệm vừa đắng cay, chua xót vừa ấm áp của cậu bé Hồng về mẹ của mình. Dù có bao nhiêu hủ tục, dị nghị, định kiến xã hội bất nhưng công trong lòng cậu mẹ luôn đẹp đẽ, nhân từ, hiền hậu, là người phụ nữ biết khao khát hạnh phúc yêu thương.
Có thể nói chủ nghĩa nhân đạo là giá trị lớn nhất và có ý nghĩa nhất trong các sáng tác văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945, nó tiếp tục được gìn giữ thể thiện và nâng cao các giai đoạn văn học sau. Bởi thế M. Gorki có một câu nói nổi tiếng “Con người, tất cả ở trong con người, tất cả vì con người. Hai tiếng ấy vang lên mạnh mẽ và hùng tráng biết bao”. Đó cũng chính là mục đích cuối cùng của những người nghệ sĩ hết lòng vì nghệ thuật.