Trong xã hội phong kiến xưa, người dân Việt Nam phải chịu nhiều cảnh áp lực của quan lại, cuộc sống vốn đã nghèo nay còn nghèo hơn. Thông cảm với điều đó, Phạm Duy Tốn đã đặt bút viết nên tác phẩm “Sống chết mặc bay” nhằm “phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân, đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến.” Đây được xem là tác phẩm thành công nhất của Phạm Duy Tốn lúc bấy giờ.
Câu chuyện được Phạm Duy Tốn xây dựng dưới bối cảnh của vùng nông thôn Việt Nam vào đầu những năm 20 thế kỷ XX. Trong một đêm khuya, người dân đang vất vả đắp đe trên sông Nhị Hà, ngăn lũ lớn sắp phá đê. Ấy vậy mà, trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này, các quan phụ mẫu trong đình vẫn ung dung, thong thả, ngồi chơi bài tổ tôm, cười nói vui vẻ, mặc cho bên ngoài mưa gió ầm ầm, nước lớn sắp phá đê.
Ngay từ nhân đề tác phảm, Phạm Duy Tốn đã sử dụng vế “ sống chết mặc bay” nhằm chỉ sự hưởng lợi phù du, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình. Họ không quan tâm người khác sẽ ra sao, họ chỉ nghĩ cho bản thân, cuộc sống ích kỷ đã chiếm lấy cơ thể họ, ăn dần ăn mòn vào bộ não họ. Ngay cái nha đề cũng đã thể hiện sự thờ ơ, không quan tâm đến dân của các quan phụ mẫu, để cho dân tự sinh, tự diệt.
Tác phẩm được mở ra với một không gian rộng lớn, tối om nhưng không khí lại rất vội vàng, khẩn trương, trong đó còn có cả sự gấp gáp của con người nơi đây: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.” Ngược lại, là không khí nhỏ hẹp, sáng trưng với đèn đuốc trong đình, con người lại ung dung, nhẹ nhàng không hề ăn nhập với không khí ngoài kia của dân con: “Bên cạnh ngài, bên tay trái bát yến hấp phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút…hai bên nào là ống thuốc bạc, trông mà thích mắt”.Bộ mặt thật của quan phụ mẫu nơi đây đã lộ, bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của quan huyện cũng đã lộ rõ dưới ngòi bút sắc sảo của Phạm Duy Tốn. Mưa bão và sinh mạng hàng ngàn con dân không bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn im lặng, chẳng có chút không khí vỡ đê, đắp đê nào cả chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn…” Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép nhất cho sự thối nát của bọn chính quyền phong kiến chèn ép, đàn áp con dân của mình. Người nông dân Việt Nam thấp cổ bé họng, đeo một lúc hai tròng, không làm được gì, bất lực nhìn cảnh nước cuốn đi hoa màu, nhà cửa,… của họ. Phạm Duy Tốn cũng đã bày tỏ thái độ bất mãn với thời đại hiện tại, cảm thương cho người dân vô tội, một cổ đeo hai tròng.