Là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào thơ mới lên đỉnh cao, là một đại diện tiêu biểu của thơ mới, với tài năng nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ "ảo não", nhà thơ Huy Cận đã để lại cho đời những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật ấn tượng. Trong đó, phải kể đến tác phẩm "Tràng giang" được sông Hồng gợi tứ. Một trong những nét đặc sắc của bài thơ là "lòng yêu tạo vật thiên nhiên trong tâm trạng cô đơn thẳm sâu và trong sáng của Huy Cận".
Bài thơ Tràng giang được sáng tác năm 1939, in trong tập thơ Lửa thiêng năm 1940 - là một trong những thi phẩm xuất sắc của phong trào Thơ mới. Theo tác giả cho biết, khi đang còn là chàng sinh viên của trường Đại học Canh nông, vào một buổi chiều mùa thu, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng với những sóng nước mênh mông, lòng nghĩ về về kiếp người nổi trôi đầy xúc động nên đã sáng tác bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang với tâm trạng cô đơn và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc trước cảnh : "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Ngay từ cách đặt nhan đề bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ một tình yêu đất nước, quê hương thầm kín. Nhà thơ đặt tên cho tác phẩm của mình là "Tràng giang" chứ không phải là "Trường giang" mặc dù cả "tràng" và "trường" đều có nghĩa chỉ con sông dài. Tuy nhiên, "trường" chỉ diễn tả chiều dài về mặt địa lí của con sông, còn "tràng" mới thể hiện được cái mênh mông, rộng lớn, với cách điệp âm "ang" tạo lên một tiếng vang kéo dài vào không gian vũ trụ. Nó không chỉ miêu tả được chiều dài mà còn nói lên được chiều rộng của con sông. Đó là một con sông được vẽ lên từ không gian ba chiều: chiều sâu, chiều rộng và chiều dài. Con sông "tràng giang" càng sâu, rộng và dài bao nhiêu, cái cô đơn của người thi sĩ càng thẳm sâu bấy nhiêu.
Với lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", nhà thơ cũng gửi gắm vào đó nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng trước trời đất mênh mông, bao la. Đó cũng chính là cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Tác giả cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bơ vơ trước một không gian mênh mông hiện lên với những hình ảnh cụ thể, hữu hình nhưng lại trở nên vô hình. Đó là hình ảnh con thuyền đang buông xuôi mái chèo, trôi nổi giữa mênh mông sóng nước. Đó là hình ảnh "củi lạc" "bèo dạt" gợi cảm giác cô đơn như thân phận của một con người. Nỗi buồn của người thi sĩ đã nhuốm vào cảnh vật qua các hình ảnh "sóng buồn điệp điệp" , "nước sầu trăm ngả". Tất cả đã gợi ra một nỗi buồn man mác, nỗi sầu ấy đang lan toả ra trăm ngả, đang gợn trên mặt sóng tràng giang. Đó là một nỗi sầu vô định. Trong cảm nhận của Huy Cận mỗi lớp sóng "tràng giang" cũng là một nỗi buồn, nỗi sầu đang gợn sóng. Nếu thi thánh Đỗ Phủ từng viết "Tự bất kinh nhân tử bất hưu" (Một chữ mà chưa làm cho người ta kinh, chết chưa yên), thì Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định : "Trót nợ cùng thơ, phải chuốt lời". Vì vậy để có được dòng thơ "Củi một cành khô lạc mấy dòng", Huy Cận cũng đã phải trải qua nhiều trăn trở tìm tòi, sáng tạo. Ban đầu nhà thơ từng viết "Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết dòng" rồi sửa thành "Củi mấy cành khô đã lạc dòng", nhưng với tình yêu thiên nhiên tạo vật và cách quan sát tinh tế, Huy Cận đã bằng lòng với hình ảnh "củi một cành khô lạc mấy dòng". Nếu hai chữ "mấy dòng" gợi không gian sóng nước mênh mang thì hình ảnh "củi một cành khô" lại là hiện thân cho những gì nhỏ bé, mong manh, cô đơn. Với nghệ thuật tương phản giữa cái hữu hạn và cái vô cùng, Huy Cận đã làm nổi bật sự nổi trôi, lưu lạc của cành củi mong manh ấy. Lời thơ cũng kín đáo gợi thân phận nổi trôi, bèo bọt của con người ở giữa dòng đời. Nỗi buồn, nỗi sầu của hồn thơ Huy Cận càng thêm sâu sắc và thấm thía.
Qua lăng kính ưu tư, phiền não của nhà thơ, những dấu hiệu của sự sống như đang dần biến mất được thể hiện trong những dòng thơ tiếp theo ở khổ thơ thứ hai. Chỉ trong một câu thơ mà có tới năm tính từ diễn tả sự nhỏ nhoi, cô lẻ "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Từ láy "lơ thơ" được đảo lên đầu dòng thơ đã nhấn mạnh và làm nổi bật trạng thái thưa thớt trống trải của thiên nhiên cảnh vật trên cồn. Hai chữ "đìu hiu" được gợi nên từ tứ thơ "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm :
"Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò"
Những hình ảnh đó đã làm sống lại cái không khí hiu hắt, thê lương của vần thơ cổ. Trong cảm nhận của Huy Cận, mỗi ngọn gió "tràng giang" như đều phảng phất một nỗi buồn hiu hắt, đều mang theo cảm giác trống trải và lạnh giá. Âm thanh duy nhất trong bài thơ là tiếng chợ chiều, cũng là một âm thanh đang dần tắt, dần tàn lụi. Nhà thơ đã cố gắng tìm chút hơi ấm thân quen của sự sống con người nhưng càng tìm càng thất vọng. Lời thơ vừa bộc lộ giác quan tinh tế chăm chú và niềm khát khao hơi ấm của con người của Huy Cận vừa làm nổi bật thêm cái tĩnh lặng vô cùng của cảnh tượng "tràng giang". Các hình ảnh "trời, sông, bến, thuyền" được tác giả kết hợp với những tính từ "xuống, lên, dài, rộng, cô liêu" đã khiến không gian như được nới kích rộng hơn. Đặc biệt sự sáng tạo khi sử dung cụm từ "sâu chót vót" đã được tác giả khéo léo đồng nhất chiều cao của vòm trời với chiều sâu của đáy vũ trụ, hoá ra vũ trụ là một cái vực không đáy. Nhà thơ đã khắc hoạ một dòng tràng giang như không chỉ chảy trên mặt đất, mà còn đang chảy trong vũ trụ vô cùng. Đó là một dòng sông tuôn về từ cảm giác vũ trụ, từ nỗi sầu nhân thế của một hồn thơ ảo não trong phong trào thơ mới.
Có lẽ "cái tôi" nhạy cảm, đầy trắc ẩn của Huy Cận luôn rung động cùng một nhịp với thiên nhiên được thể hiện rõ nét hơn qua khổ thơ thứ ba. Hình ảnh những "cánh bèo" mang kiếp phù du của thân phận trôi nổi đã được nhà thơ gom lại qua cụm từ "hàng nối hàng", chúng cứ tiếp nối nhau trôi qua trong con mắt của người thi sĩ mà tâm hồn đã lạc dòng giống như những cành củi khô. Hình ảnh những cây cầu, bến đò vốn là những biểu tượng cho sự kết nối nhưng ở đây, giữa nỗi buồn đang trở nặng những ưu tư, phiền não triền miên, chúng không xuất hiện qua cách phủ định "không" liên tiếp. Không còn thấy bất cứ dấu vết nào của sự sống, sự tương tác giữa con người với con người mà chỉ còn lại nỗi lòng, tâm trạng của kẻ lữ thứ - tha hương. Nỗi buồn và cảm giác thất vọng càng được tăng thêm trong cái nhìn bao quát toàn cảnh tràng giang, nhà thơ chỉ nhận thấy sự ngự trị của thiên nhiên : "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng". Cả bài thơ tả cảnh thiên tràng giang mà chỉ có ba sắc màu "xanh", "vàng", "bạc". Thiên nhiên được cảm nhận ít sắc màu như thế là thiên nhiên được cảm nhận ở tầng cao, tầng xa, bằng cái nhìn khái quát giống như cách cảm nhận thiên nhiên quen thuộc trong thơ ca cổ.
Đến khổ thơ cuối cùng, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đất nước lúc này mới được bộc lộ một cách rõ nét hơn. Cách hình ảnh "mây, núi, cánh chim, con nước" là những chất liệu phổ biến trong thi ca cổ điển và đã được Huy Cận hồi sinh trong một bài thơ mới khiến cho lời thơ càng thêm cổ điển. Các hình ảnh ấy được kết hợp với các từ láy "lớp lớp", "dợn dợn" đã làm nổi bật thêm bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, trùng trùng, điệp điệp. Hai chữ "nhớ nhà" ở cuối bài thơ kín đáo gợi hình ảnh của một người lữ khách đang đứng ngay trên quê hương của mình mà vẫn bày tỏ nỗi lòng nhớ về quê hương. Lúc này, tâm trạng của nhà thơ và Bà Huyện Thanh Quan có sự tương đồng về mặt cảm xúc và tâm trạng. Huy Cận đã mượn tứ thơ của Thôi Hiệu "Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai) (Hoàng Hạc Lâu) để diễn tả nỗi nhớ. Bằng tài năng và bản lĩnh sáng tạo của mình, Huy Cận đã khéo léo đối thoại với những lời thơ ấy khi viết "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Nỗi nhớ đó được gợi ra từ nội tâm chứ không phải do ngoại cảnh tác động đến như Thôi Hiệu.
Việc vận dụng các chất liệu của thi ca cổ điển, từ thể thơ, cấu tứ, cách ngắt nhịp 2/2/3, 4/3, gieo vần, cho đến các hình ảnh mang đậm chất Đường thi kết hợp với tài năng sáng tạo của một hồn thơ mới, Huy Cận đã mang đến một thi phẩm "Tràng giang" bằng tấm lòng của một người yêu thiên nhiên say đắm, trong sáng với nỗi niềm "sầu trăm ngả". Đó là những lời thơ in đậm dấu ấn tài năng và tâm hồn Huy Cận trước cách mạng, "một hồn thơ mà chỉ có một ít cát bụi bình thường, thi nhân vẫn có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc" như Hoài Thanh đã từng viết.