Công dân là cá nhân, con người cụ thể, có năng lực pháp lí và năng lực hành vi, có các quyền và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật của một quốc gia.
Quốc tịch là mối liên hệ pháp lí giữa cá nhân đối với nhà nước nhất định, biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó được pháp luật của Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện.
Quốc tịch mang tính ổn định tương đối và bền vững. Nó gắn với một người kể từ khi người đó được sinh ra trừ một số trường hợp vì những lí do nhất định có thể có sự thay đổi quốc tịch.
Một người có quốc tịch có nghĩa họ là công dân của nước mà họ mang quốc tịch. Vì vậy, nhà nước phải có quyền và nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình và ngược lại, công dân cũng phải có quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước mà mình mang quốc tịch.
Điều kiện, cách thức hưởng quốc tịch, mất quốc tịch, thay đổi quốc tịch do pháp luật của mỗi nước quy định. Sự khác nhau trong quy định của các nước về cách thức hưởng và mất quốc tịch là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người có nhiều quốc tịch và người không quốc tịch. Ở Việt Nam, ngày 28.6.1988 tại kì họp thứ ba Quốc hội Khoá VIII đã chính thức thông qua Luật quốc tịch Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta có văn bản pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, qua thời gian áp dụng, Luật quốc tịch 4988 đã bộc lộ một số hạn chế nhất định cần được khắc phục. Ngày 20.5.1998, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá X, kì họp thứ 3 đã thông qua Luật quốc tịch mới. Luật này có hiệu lực từ ngày 01.01.1999 thay thế Luật quốc tịch 1988.
Phần lớn người Việt di cư đến Hoa Kỳ kể từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, với những người nhập cư đầu tiên là những người tị nạn từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân vượt biên ra nước ngoài bằng đường biển. Kể từ thập niên 1990, những người Việt định cư vào Hoa Kỳ chủ yếu là để đoàn tụ gia đình. Người Mỹ gốc Việt bắt đầu hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ và trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này.