Câu 1 b)Đoạn thơ trên diễn tả nỗi lòng của Thúy Kiều. Trong hoàn cảnh Kiều bị bán vào lầu xanh. Qua đó em nhận thấy Kiều không chỉ là một người tình chung thủy mà còn là một người con hiếu thảo đáng được yêu thương.
Câu 2
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?”
Câu thơ mở đầu bằng hai tiếng “buồn trông” cho thấy Kiều buồn bã ngóng trông tìm tia hi vọng, giọng điệu chận rãi trầm buồn như một lời than vãn não ruột của những câu ca dao than thân trách phận.
“Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai ?”
Câu thơ còn mở ra một không gian, thời gian đượm buồn, đó là cảnh hoàng hôn trên biển. Buổi chiều là khoảnh khắc của ngày tàn muôn thuở gợi nỗi buồn nỗi sầu man mác buâng khuâng, nhất là những người tha hương lữ thứ. Buổi chiều cành khiến cho cửa biển mênh mông xa vắng, nỗi lòng nàng trải ra cùng cảnh vật. Thời điểm hoàng hôn còn gợi sự xum họp, gợi nỗi nhớ quê hương buổi chiều con chim về tổ, con thuyền cặp bến, con người đoàn tụ bên mái ấm gia đình, thế nhưng chiều rồi mà Kiều còn lênh đênh trên dòng đời xuôi ngược, tựa như con thuyền lênh đênh trên sóng nước không có bến cập nẻo dừng. Con thuyền cũng là một ảnh ảo xa xăm. Kiều tưởng tượng chiếc thuyền kia sẽ đưa mình trở lại quê nhà, thế nhưng hi vọng rồi lại tuyệt vọng vì con thuyền chỉ là thấp thoáng xa xa. Từ láy “thấp thoáng” miêu tả con thuyền lúc ẩn lúc hiện, lúc chìm lúc nổi. Còn từ láy “xa xa” cho thấy nó bé nhỏ mất hút giữa lòng đại dương mênh mông. Với hình ảnh cánh buồm lẻ loi, câu thơ gợi ra một chuyến đi xa một thân phận bơ vơ đơn độc, một cuộc đời lưu lạc nổi trôi tựa như cuộc đời của Kiều. Câu hỏi tu từ mơ hồ, mông lung khiến cho suy nghĩ trở nên miên man xa xăm diễn tả nỗi buồn càng thêm tái tê lan rộng.
Hai câu thơ tiếp theo lại tiếp tục miêu tả nỗi buồn của Kiều, đó chính là nỗi buồn cho thân phận lênh đênh nỗi trôi vô định
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Hai câu thơ sử dụng thi liệu mang tính ước lệ tượng trưng. Hình ảnh ngọn nước và cánh hoa làm ta liên tưởng đến dòng đời xuôi ngược và thân phận con người mỏng manh, yếu đuối. Hình ảnh cánh hoa trôi trên mặt biển gợi đến một thân phận nổi trôi bị cuộc đời vùi dập. Cánh hoa tuy đẹp nhưng mỏng manh sớm nở tối tàn xa cội lìa cành,.từ láy man mác gợi sự lặng lẽ lênh đênh bơ vơ chậm rãi vô phương hướng. Hình ảnh ấy như xoáy vào nỗi buồn của Kiều, bởi cánh hoa kia cũng chính là thân phận của nàng. Tương lai của Kiều vô định còn mãi trong câu hỏi về đâu tựa như những câu ca dao xưa :
«Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ? »
Câu hỏi tu từ gợi nỗi buồn lan tỏa rơi vào vô vọng như đẩy tâm trạng của nàng cao hơn một nấc.
Chạy trốn nỗi buồn nỗi buồn càng đeo bám. Hết nỗi buồn này lại đến nỗi buồn khác, nhìn đâu Kiều cũng thấy cảnh vật buồn thương đầy tâm trạng
« Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh »
Nhìn sang đồng cỏ mênh mông, Kiều bắt gặp màu vàng vàng héo úa dường như không còn sức sống. Từ láy rầu rầu không chỉ gợi hình miêu tả đồng cỏ xác xơ mà còn gợi sự tang thương đơn điệu nhạt nhòa Đây không phải là đồng cỏ xanh tận chân trời mà là màu cỏ Kiều đã gặp trên nấm mồ Đạm Tiên
« Sè sè nắm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh »
Từ láy “rầu rầu, xanh xanh” góp phần khắc họa tâm trạng chán chường của Kiều, không gian đất và trời dường như trải rộng ra với chiều cao chiều dài chiều rộng nhưng tất cả đều mang một màu xanh ảm đạm, màu xanh của cỏ cây hòa cùng màu chiều như đưa Kiều vào rừng xanh không lối thoát. Ba bên bốn phía không một ánh sáng lóe lên, không một con đường để Kiều vùng vẫy thoát thân. Hai câu thơ đã diễn tả bế tắc tuyệt vọng đến mức chán chường trước thực tại phũ phàng, vô vọng. Lúc này đây Kiều sống nhưng con tim đã chết.
Ở hai câu thơ cuối cùng nỗi buồn của Kiều dâng lên cực điểm trước cảnh sóng gió khủng khiếp ập đến, nỗi buồn ấy như chiếc đinh ốc xoáy tận cùng tâm can của nàng
« Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi »
Hai câu thơ có nhịp điệu gấp gáp đột ngột dữ dội kết hợp với những động từ mạnh cuốn kêu nhằm khắc họa một cảnh tượng hãi hùng kinh sợ. Câu thơ có phép nhân hóa gió cuốn sóng kêu, phép ẩn dụ sóng gió chỉ tai họa cuộc đời như sắp đổ ập đến đời nàng. Đất trời giờ đây đã nổi sóng dậy gió như muốn nhấn chìm Kiều rơi xuống vực sâu, trên đầu nàng gió không nhẹ vỗ mà gào thét kêu thương. Bằng phép đảo ngữ tác giả đưa từ láy ‘ầm ầm’ lên đầu dòng thơ để nhấn mạnh âm thanh dữ dội của sóng gió cuộc đời âm thanh đó như tiếng sét đánh ngang tai làm cho Kiều hoảng loạn tâm trí. Kiều cảm thấy mình bé nhỏ chơi vơi giữa dòng đời đầy cạm bẫy, tại họa như bủa vây xô Kiều xuống vực sâu, ập tới từ nhiều phía. Kiều không chỉ buồn mà còn sợ hãi kinh hoàng vì con đường phía trước mà nàng sẽ đặt chân đến quả là đầy cạm bẫy, tai họa. Tám câu thơ không chỉ là tiếng lòng của Kiều mà có cả những giọt nước mắt của Nguyễn Du, Do có sự đồng cảm về hoàn cảnh xa nhà, ông lại sống trong xã hội trọng nam khinh nữ nên Ông đã viết lên những câu thơ ai oán bi thương đến như vậy, đúng là ND có con mắt thấu sáu cõi và trái tim nghĩ suốt nghìn đời,