Đóng góp nổi bật của Nguyễn Ái Quốc đối với xách mạng Việt Nam từ năm 1925-1930 là gì
Đóng góp nổi bật của nguyễn ái quốc đối với xách mạng Việt nam từ năm 1925 đến 1930 là gì
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. 2. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin của Nguyễn Ái Quốc. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919,Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn, Người khẳng định “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng vô sản. Tóm lại với việc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến con đường cứu nước giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Người khẳng đinh:”Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Sự kiện này mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt nam trong suốt những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với lịch sử dân tộc. Câu 2 (2.0 điểm). Sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có những quyết định quan trọng nào? Ý nghĩa của những quyết định đó. Hướng dẫn trả lời 1. Những quyết định quan trọng của Nguyễn Ái Quốc sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước. - Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã có hai quyết định quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đó là: Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. - Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. 2. Ý nghĩa của những quyết định của Nguyễn Ái Quốc - Đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản và Người đã khẳng định con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản, ngoài ra không có con đường cách mạng nào khác. Sự kiện đó đã mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cho cách mạng Việt Nam. Câu 3 (3.0 điểm) Trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1929. Hướng dẫn trả lời Từ khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Thời kỳ ở Pháp (1920 -1923) - Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. - Tờ báo Người cùng khổ của Hội do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. - Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân’(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), -và cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp . Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên bí mật chuyển về Việt Nam. - Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác - Lênin. 2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) - Tháng 6/1923, Nguễn Aí Quốc đã rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí ’’Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. - Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông nhân ở các nước thuộc địa. - Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, đây cũng là bước chuẩn bị về chính trị tư tưởng của Người cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. 3.Thời kỳ ở Trung Quốc ( 1924 - 1927) - Sau một thời gian hoạt động ở Liên xô, Nguyễn ái Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) vào 11/1924. Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, cùng một số thanh niên từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện (6/1924). - Người đã tập hợp những người thanh niên tiêu biểu trong tổ chức Tâm Tâm xã để thành lập ra nhóm Cộng Sản đoàn (2/1925). - Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. - Hội đã ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận, ngày 21/6/1925 xuất bản số đầu tiên. - Tại Quảng Châu, Nguyễn ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên xô hay Trung Quốc, còn phần lớn được đưa về nước hoạt động. - Đầu năm 1927, các bài giảng của trong các khoá đào tạo được tập hợp và in thành cuốn "Đường cách mệnh". - Tác phẩm Đường cách mệnh và tờ báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về nước có tác dụng thức tỉnh tinh thần cách mạng và du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng nhân dân mở đường cho việc thành lập Đảng. - Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì đến 1929 lên tới 1700 hội viên. Cho đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929), Hội đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra Hội còn tổ chức được một số đoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ... - Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tổ chức phong trào "vô sản hoá" nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bà chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân của chính đảng vô sản nước ta: - Hội đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác – Lê nin về trong nước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. - Hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đưa phong trào công nhân phát triển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, phong trào yêu nước của các giai cấp phát triển, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Câu 4 (3.0 điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập nghiên cứu để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, hình thành lên những quan điểm chiến lược, sách lược về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua việc viết sách báo, các bài tham luận tại các hội nghị, đại hội, từng bước truyền bá về trong nước để trang bị lý luận cho nhân dân ta và làm cơ sở cho đường lối cách mạng của Đảng ta sau này. 1. Chuẩn bị về tư tưởng chính trị Trong thời gian ở Pháp, Người tham gia viết bài cho báo “:Nhân đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân” của Tổng liên đoàn lao động Pháp, báo “Người cùng khổ” của Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari và đặc biệt viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925. Thời gian ở Liên Xô, Người vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo “Sự thật” của Đảng cộng sản Liên Xô, tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế cộng sản. Thời gian ở Trung Quốc, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra tờ báo “Thanh Niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội và tuyên truyền cách mạng về trong nước. Năm 1927 trên cơ sở tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu đã được tập hợp lại và in thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” để trang bị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên. 2. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Tháng 2 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số hội viên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã để lập ra nhóm Cộng Sản đoàn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hóa” về trong nước, đưa cán bộ, hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và số lượng, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Tóm lại, với những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc, năm 1929 những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã được chuẩn bị, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/21930) đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Câu 5 (2.5điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Đầu năm 1930, trước yêu cầu của cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là đóng góp vĩ đại nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch sử dân tộc. 1. Hoàn cảnh: - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào năm 1929 là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất và trực tiếp tổ chức lãnh đạo những cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân khác cũng diễn ra sôi nổi mạnh mẽ kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng khắp trong cả nước. - Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. - Trước tình hình đó, Quốc tế cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc (với chức trách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới phong trào cách mạng ở Đông Dương) chịu trách nhiệm thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất. - Từ ngày 6/1 đến 8 - 2 - 1930, Hội nghị hợp nhất Đảng họp ở Cửu Long (Hương Cảng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản đảng 2. Nội dung: - Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng sản riêng rẽ và nêu rõ chương trình của Hội nghị. - Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. - Nhân dịp Đảng ra đời Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, anh chị em bị áp bức… - Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Ý nghĩa: - Hội nghị thành lập Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm vóc như một đại hội thành lập đảng vì đã sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc và quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. 2. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin của Nguyễn Ái Quốc. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919,Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn, Người khẳng định “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng vô sản. Tóm lại với việc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến con đường cứu nước giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Người khẳng đinh:”Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Sự kiện này mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt nam trong suốt những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với lịch sử dân tộc. Câu 2 (2.0 điểm). Sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có những quyết định quan trọng nào? Ý nghĩa của những quyết định đó. Hướng dẫn trả lời 1. Những quyết định quan trọng của Nguyễn Ái Quốc sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước. - Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã có hai quyết định quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đó là: Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. - Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. 2. Ý nghĩa của những quyết định của Nguyễn Ái Quốc - Đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản và Người đã khẳng định con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản, ngoài ra không có con đường cách mạng nào khác. Sự kiện đó đã mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cho cách mạng Việt Nam. Câu 3 (3.0 điểm) Trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1929. Hướng dẫn trả lời Từ khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Thời kỳ ở Pháp (1920 -1923) - Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. - Tờ báo Người cùng khổ của Hội do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. - Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân’(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), -và cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp . Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên bí mật chuyển về Việt Nam. - Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác - Lênin. 2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) - Tháng 6/1923, Nguễn Aí Quốc đã rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí ’’Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. - Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông nhân ở các nước thuộc địa. - Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, đây cũng là bước chuẩn bị về chính trị tư tưởng của Người cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. 3.Thời kỳ ở Trung Quốc ( 1924 - 1927) - Sau một thời gian hoạt động ở Liên xô, Nguyễn ái Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) vào 11/1924. Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, cùng một số thanh niên từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện (6/1924). - Người đã tập hợp những người thanh niên tiêu biểu trong tổ chức Tâm Tâm xã để thành lập ra nhóm Cộng Sản đoàn (2/1925). - Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. - Hội đã ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận, ngày 21/6/1925 xuất bản số đầu tiên. - Tại Quảng Châu, Nguyễn ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên xô hay Trung Quốc, còn phần lớn được đưa về nước hoạt động. - Đầu năm 1927, các bài giảng của trong các khoá đào tạo được tập hợp và in thành cuốn "Đường cách mệnh". - Tác phẩm Đường cách mệnh và tờ báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về nước có tác dụng thức tỉnh tinh thần cách mạng và du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng nhân dân mở đường cho việc thành lập Đảng. - Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì đến 1929 lên tới 1700 hội viên. Cho đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929), Hội đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra Hội còn tổ chức được một số đoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ... - Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tổ chức phong trào "vô sản hoá" nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bà chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân của chính đảng vô sản nước ta: - Hội đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác – Lê nin về trong nước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. - Hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đưa phong trào công nhân phát triển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, phong trào yêu nước của các giai cấp phát triển, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Câu 4 (3.0 điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập nghiên cứu để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, hình thành lên những quan điểm chiến lược, sách lược về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua việc viết sách báo, các bài tham luận tại các hội nghị, đại hội, từng bước truyền bá về trong nước để trang bị lý luận cho nhân dân ta và làm cơ sở cho đường lối cách mạng của Đảng ta sau này. 1. Chuẩn bị về tư tưởng chính trị Trong thời gian ở Pháp, Người tham gia viết bài cho báo “:Nhân đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân” của Tổng liên đoàn lao động Pháp, báo “Người cùng khổ” của Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari và đặc biệt viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925. Thời gian ở Liên Xô, Người vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo “Sự thật” của Đảng cộng sản Liên Xô, tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế cộng sản. Thời gian ở Trung Quốc, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra tờ báo “Thanh Niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội và tuyên truyền cách mạng về trong nước. Năm 1927 trên cơ sở tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu đã được tập hợp lại và in thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” để trang bị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên. 2. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Tháng 2 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số hội viên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã để lập ra nhóm Cộng Sản đoàn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hóa” về trong nước, đưa cán bộ, hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và số lượng, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Tóm lại, với những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc, năm 1929 những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã được chuẩn bị, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/21930) đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Câu 5 (2.5điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Đầu năm 1930, trước yêu cầu của cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là đóng góp vĩ đại nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch sử dân tộc. 1. Hoàn cảnh: - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào năm 1929 là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất và trực tiếp tổ chức lãnh đạo những cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân khác cũng diễn ra sôi nổi mạnh mẽ kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng khắp trong cả nước. - Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. - Trước tình hình đó, Quốc tế cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc (với chức trách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới phong trào cách mạng ở Đông Dương) chịu trách nhiệm thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất. - Từ ngày 6/1 đến 8 - 2 - 1930, Hội nghị hợp nhất Đảng họp ở Cửu Long (Hương Cảng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản đảng 2. Nội dung: - Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng sản riêng rẽ và nêu rõ chương trình của Hội nghị. - Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. - Nhân dịp Đảng ra đời Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, anh chị em bị áp bức… - Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Ý nghĩa: - Hội nghị thành lập Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm vóc như một đại hội thành lập đảng vì đã sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc và quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Tất Thành tại Hội nghị Versailles, Pháp
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự kiện đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng CỘng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được xây dựng ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam – môt Đảng vừa mới được thành lập nhưng đã giương cao được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết tốt nhất tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để hoàn thành thắng lợi cuộc cách mang dân tộc dân chủ, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con đường cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và đã làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, biết ơn và tin yêu Đảng, toàn thể đảng viên, cán bộ viên chức, sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh hôm nay không ngừng ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng bộ Nhà trường thành một tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể xây dựng Nhà trường thành một cơ sở giáo dục đại học phát triển, góp phần tích cực vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chung tay xây dựng quê hương, Đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, như sinh thời Bác Hồ hằng mong ước.