Trường Hán Siêu vốn là một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng của triều đại nhà Trần.Tuy nhiên, chúng ta vẫn biết đến ông nhiều hơn với tư cách là một nhà văn. Mặc dù sáng tác còn lại không nhiều nhưng với văn bản Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu cũng đã để lại trong người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Trước khi là một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam, Phú sông Bạch Đằng là một dòng hoài niệm về quá khứ thể hiện đậm nét niềm tự hào về truyền thông của dân tộc và tư tưởng nhân vấn của Trương Hán Siêu.
Tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn là hai truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam. Văn thơ thời đại Lí – Trần có rất nhiều các sáng tác thể hiện sâu sắc hai truyền thống này: Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải)… Đến Trương Hán Siêu, một lần nữa, niềm tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn lại được thể hiện đậm nét.
Bài phú mở đầu bằng hình ảnh của vui thú tiêu dao của nhân vật khách. Qua lời thuật kể, người đọc có thể thấy rằng khách đã rong ruổi rết nhiều nơi:
Sớm gõ thuyền chừ Nguyền, Tương
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Và điểm khách đang dừng chân là sông Bạch Đằng. Đi nhiều, biết nhiều nhưng không ngờ nơi đây lại khiến nguồn thi hứng của khách dạt dào đến thế (Nhân vật khách là sự phân thân của chính tác giả). Phải chăng đây là nơi cảnh đẹp:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu
Hay còn bởi đây là nơi ghi dấu những chiến tích của quân đội ta năm xưa. Với Trương Hán Siêu, tự hào dân tộc là tự hào về truyền thống yêu nước và tự hào về truyền thống đạo lí nhân nghĩa. Phân thân thành nhân vật khách và các bô lão, tác giả đã để dòng hoài niệm về cuộc chiến đấu vẻ vang của dân tộc đang dâng trào cất thành những lời ngợi ca chiến công trên sông Bạch Đằng:
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Háh trên sông Bạch Đằng. Và tròn ba trăm năm mươi năm sau (năm 1288), cũng trên dòng sông đó, Trùng Hưng nhị thánh bắt Sống tướng giặc ô Mã Nhi. Sở dĩ các bô lão nhắc tới chiến thắng thời Trần trước là bởi sự kiện này mới diễn ra, gần gũi với họ. Chính chiến thắng này đã gợi nhớ lại chiến thắng khi xưa. Nhắc lại những chiến công oai hùng đó, trong lòng các bô lão và nhân vật khách chắc chắn đang dấy lên niềm tự hào khôn xiết. Bằng hai câu văn dài, mỗi câu mười hai âm tiết, tác giả đã tạo được không khí trang nghiêm, đĩnh đạc, làm nền cho việc hồi tưởng lại chiến trận (giữa quân đội nhà Trần và quân Nguyên – Mông) ở phần tiếp:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Cách ngắt nhịp nhanh, lối đối ngẫu chặt chẽ và một loạt hình ảnh hùng dũng trong hai câu văn tái hiện sinh động không khí trận mạc quyết liệt trên sông. Các nhân vật như đang sống trong cuộc giao tranh ác liệt. Họ nhìn nhận rất chính xác về lực lượng giữa ta và địch chứ hoàn toàn không quá đề cao hay hạ thấp bên nào. Quân địch rất hùng mạnh và lại gian xảo (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước dối), còn quân ta chiến đấu vì chính nghĩa nên cũng thuận với lẽ trời (Trời cũng chiều người), lại có người tổ chức lãnh đạo kiệt xuất với đường lối chiến thuật, chiến lược đúng đắn (Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an). Chính cái nhìn công bằng của khách và các bô lão về lực lượng ta – địch đã góp phần thể hiện sâu sắc hơn niềm tự hào trong họ. Chiến thắng đội quân kiêu ngạo đã từng tung vó ngựa thôn tính nhiều quốc giạ từ Á sang Âu, quân đội ta quả đã thực thi một việc phi thường. Niềm tự hào ấy hẳn lớn lao vô cùng nên các bô lão và khách đã phải cất lời đối sánh:......