câu 1: Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu "thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển, cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc".[1] Cải cách ruộng đất đi kèm với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.
câu 2: b:
Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định).
- Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
- Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục,…
- Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
a: Các tác giả:
Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương, Nguyễn
Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ,
Cao Huy Thuần,....
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Theo dõi những
diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật
sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu lại những thành
tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt Nam đang suy
yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non
yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước nhiều bất
cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe dọa về an
ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.
Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng
1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta đã mất gần
35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế
hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó, nhiều
nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước
trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta hiện
nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục đến
khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho
thấy Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm
2020.
Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân sâu xa, liên quan đến
thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và quản lý nhà nước nói riêng