Mở bài
"Đây thôn Vĩ Dạ" được in trong tập "Thơ Điên" của Hàn Mặc Tử tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác nổi bật của ông.
Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc Điền – Quy Nhơn. Tuy là một mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.
2. Thân bài
a. Khổ 1: Sao anh không về...
- Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói vởi Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:
- Hình ảnh "nắng mới, hàng cau" cùng với lá vườn mướt "xanh như ngọc" tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng trăm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh "nắng mới - hàng cau" trong bài thơ này?
Câu thơ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức "chữ điền", tượng trung cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung...., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ đẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điền, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.
b. Trong khổ thơ thứ hai: Gió theo lối gió... kịp tối nay? Cảnh tượng thực bên bờ sông Hương:
Nhưng đó cũng là ẩn dụ kín đáo. Cái đặc biệt ở đây là ẩn dụ không toàn phần - tức là "ẩn dụ một nửa", "bán ẩn dụ".
Hai câu tiếp theo là cầu hỏi mơ hồ, đầy ẩn ý:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
"Thuyền ai" là câu hỏi dành cho ai? Tại sao lại phải "về kịp?" Sao lại nay?" Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.