ĐỀ 3:
Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu- anh Sáu.}
Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác.
Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu. Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.
Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, qua bé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp.
Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.
ĐỀ 4:
Hình ảnh ánh trăng đã trở thành một hình ảnh quen thuộc và sâu sắc trong lòng của tác giả những hình ảnh đó xuất hiện nhiều trong thơ ca của Việt Nam, bởi hình ánh trăng sẽ nổi bật trong những đề tài chiến tranh trong đó nổi bật lên đó là hình ảnh đầu súng trăng treo trong đồng chí của Tố Hữu và hình ảnh ánh trăng của Nguyễn Duy.
Cả hai tác giả này đều viết về đề tài chiến tranh, những hình ảnh chiến đấu trên chiến trường kia đã gắn bó với hình ảnh của những cánh rừng qua đó thể hiện được những nỗi niềm và những mong ước của tác giả kể lại những hình ảnh về một thời chiến đấu kiên cường và những mong đợi của người với những mong ước tuyệt vời hơn, những hình ảnh đó tạo nên những âm điệu nhẹ nhàng và vô cùng tình cảm, hình dung đó trong tác giả đã thể hiện được thật sâu sắc, hình ảnh ánh trăng đã gắn bó với những người lính cách mạng nó không chỉ tạo nên những làn điệu âm vang và hàng loạt những hình ảnh trần trụi và gắn bó với thiên nhiên đã được thể hiện thật sâu sắc đặc biệt là với hình ảnh ánh trăng, những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc, nó mang những âm vang sâu sắc và vô cùng ý nghĩa.
Cuộc sống của những người chiến sĩ trong cả hai tác phẩm đều dùng ánh trăng làm người bạn gắn bó với mình, trong hoàn cảnh chiến đấu đó tác giả đã thể hiện những niềm vui và hạnh phúc trong con người của người, hình ảnh đó mang theo những rung động sâu sắc hình ảnh của tác giả nói chung đã rất nhẹ nhàng và mang nhiều cảm xúc đặc biệt và sâu sắc, hình ảnh đó mang những giá trị riêng và vô cùng ý nghĩa, nó không chỉ đem lại những niềm vui và hình ảnh đó trở nên gần gũi trong con người của tác giả, những hình dung đó đã tác động mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc, mỗi nỗi niềm đã thể hiện được những nét đặc biệt và sâu sắc riêng nó không chỉ tạo nên những nhịp điệu nhẹ nhàng và vô cùng hào hoa khi hình ảnh đó tạo nên những nhịp điệu gần gũi và có ý nghĩa sâu sắc, nó tạo nên những nhịp điệu riêng và ý nghĩa sâu sắc, hàng loạt những hình ảnh đó đã thể hiện sâu sắc trong hai tác phẩm này.
Ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng, xa quê hương, xa những người thân để đi chiến đấu chính vì vậy những nỗi nhớ quê hương đã được gửi tặng qua hình ảnh của ánh trăng này, những hình ảnh đó đã tạo nên những gần gũi và vô cùng sắc, hình ảnh quen thuộc trong mọi cách nghĩ và hình dung ra nhiều những hình ảnh mang ý nghĩa đặc biệt hơn, hàng loạt hình ảnh khác cũng đã thể hiện rõ những chi tiết nổi bật đó, hàng loạt các chi tiết đã mang những kí ức đẹp và nó trở nên quen thuộc và gần gũi với con người hơn, chúng ta đã có thể hình dung và nó gắn bó trong những khoảnh khắc tuyệt vời hơn, những điều đó có ý nghĩa sâu sắc và đặc biệt gần gũi trong trái tim của mỗi người.
Ánh trăng đã trở nên gần gũi và nó gắn bó trong từng kỉ niệm và các khoảnh khắc khác của tác giả, những hình ảnh khác cũng thể hiện được những điều đó, nó đã mang trong chúng ta những điều gần gũi khi hình ảnh đầu súng trăng treo luôn trở thành một đề tài nổi bật trong thơ ca của tác giả, hình ảnh đó đã tạo nên những hình ảnh gần gũi và mang những ký ức nhẹ nhàng và vô cùng tình cảm trong tác giả, những hình dung đó đã tác động mạnh mẽ đến mỗi con người, hình ảnh đầu súng trăng treo nói lên trăng và hình ảnh đầu súng của người chiến sĩ có những kỉ niệm rất sâu sắc, hình ảnh đó đã tạo nên những nhịp điệu riêng và vô cùng gần gũi, hình ảnh đầu súng trăng treo nói về sự chiến đấu của những người chiến sĩ đã tạo nên những ưu tư sâu sắc và những nỗi nhớ thương của tác giả về những hình ảnh đó, những hình ảnh đó đã gắn bó sâu sắc với những người lính cách mạng.
Hình ảnh ánh trăng của Nguyễn Duy cũng thể hiện được những gắn bó sâu đậm của ánh trăng với hình ảnh người chiến sĩ nó trở thành người bạn tri âm tri kỉ của con người, những hình ảnh mang những đặc trưng sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, những hình ảnh mang những nỗi nhớ thương sâu sắc và những hoài niệm đó đã thể hiện sâu sắc trong hình ảnh ánh trăng đó, trong cuộc chiến đấu trong chiến trường và những rừng núi hiểm trở những người chiến sĩ chỉ biết làm bạn với hình ảnh của ánh trăng nó là người dõi theo từng bước chân của tác giả, những hình dung và hoài niệm nhớ thương đó đã tạo nên sự gần gũi và bình dị trong tâm hồn của tác giả.
Hình ảnh ánh trăng trong hai bài thơ trên đã thể hiện được sâu sắc sự gắn bó của hình ảnh ánh trăng xuất hiện trong bài thơ, nó đã thể hiện những nỗi niềm sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, những nỗi niềm đó đã mang nhiều cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, những sự gắn bó và những trải nghiệm riêng đặc biệt thể hiện trong tác phẩm của những người chiến sĩ cách mạng