Câu 1 a):
Câu thành ngữ " Thuốc đắng giã tật " là một câu thành ngữ có ý nghĩa rất hay. " Thuốc" là thứ có thể chữa khỏi bệnh cho chúng ta, giúp cho chúng ta mạnh khỏe hơn , tránh được các ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe. Vì thế thuốc không bao giờ có vị ngọt cả, mà ngược lại nó có vị rất đắng. Có những loại thuốc rất đắng khiến cho chúng ta không thể uống nổi , nhưng bên trong vị đắng ấy là bao công dụng tốt cho cơ thể con người . Nếu chúng ta hiểu sâu thêm một chút nữa thì câu thành ngữ " Thuốc đắng giã tật" lại có một ý nghĩa vô cùng sâu xa. " Thuốc đắng" như là một lời nói , lời nói ấy không phải lời nói ngọt ngào gì mà đó có thể là những lời nói thẳng thắn gây mấy lòng cho người nghe . Còn " giã tật" là những thói hư tật xấu mà chúng ta nên sửa đổi. " Thuốc đắng giã tật" câu thành ngữ khuyên chúng ta cho dù người khác có nói gì làm cho chúng ta buồn đi chăng nữa thì những lời nói ấy cũng chỉ muốn tốt cho chúng ta. Câu thành ngữ " Thuốc đắng giã tật" thật ý nghĩa, đó là bài học cần thiết giúp cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
b):
Mỗi ngày chúng ta được nghe rất nhiều lời đánh giá, nhận xét, bày tỏ về chính bản thân mình. Có khen, có chê, có khi chúng ta cảm thấy vui thích nhưng cũng nhiều khi thấy khó chịu trước những lời nói đó. Trước những nhận xét đó mỗi người cần ghi nhớ câu nói của ông cha ta: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”.Con người chúng ta ai cũng phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử. Thuốc thang là dược liệu cần trong cuộc sống của mỗi người nhất là những lúc ốm đau, bệnh tật. Thuốc rất đa dạng, có thuốc Đông y, hay thuốc Tây y nhưng nhìn chung hầu hết đều có vị đắng. Có người uống thuốc là điều đơn giản giống như chúng ta ăn uống mỗi ngày nhưng cũng có người thì thuốc trở thành nỗi ám ảnh, lo sợ và khó tiếp nhận được vị đắng của thuốc. Nắm được vai trò quan trọng của thuốc cũng như tâm lý sợ hãi của nhiều người đối với thuốc nên ông cha ta đã đưa ra lời khuyên: “Thuốc đắng dã tật” để khuyên bảo mọi người.Bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế xã hội thì đi đôi với đó là những hệ quả về ô nhiễm môi trường, những vấn đề về an toàn thực phẩm. Tất cả khiến cho tình trạng sức khỏe của con người ngày càng xấu đi. Khi ấy thuốc thang là thứ cực kỳ cần thiết. Nếu vì sợ mà trốn tránh uống thuốc sẽ khiến cho bệnh tình kéo dài. Câu tục ngữ đã đưa ra lời khuyên rằng thuốc có đắng thì mới có công hiệu tốt và mỗi người cần phải vượt qua nỗi sợ đắng khi uống thuốc. Cũng giống như thuốc, hằng ngày chúng ta phải tiếp xúc, giao tiếp với nhất nhiều người mà lời nói là phương tiện quan trọng để giao tiếp. Có khi chúng ta cảm thấy thích một số người vì họ nói chuyện dễ nghe, hay ghét một vài người vì họ nói năng thô lỗ hay thường chê bai, nói điều không tốt về mình. Nhưng nếu ta chỉ thích nghe những lời khen, lời nói tốt đẹp mà ghét hay bỏ ngoài tai những lời chê, nhắc nhở thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể tiến bộ lên được. Vế thứ hai của câu tục ngữ chính là để nói lên điều đó. “Sự thật” là những câu nói thật vạch trần những điểm yếu kém của người khác và nhất là khi nói bởi những người thẳng thắn, bộc trực thì sẽ dễ dàng bị người đối diện ghét.
Câu 2:
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng
Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.
Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.
Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy.Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên.Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp.Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhû nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.