Bài 1
Phận làm con cái phải kính hiếu cha mẹ. Đó chính là nhân phẩm, là đạo đức của một con người. Những người bạc bẽo, bất kính với cha mẹ sẽ bị chính xã hội này ruồng bỏ, khinh bỉ. Hiếu với cha mẹ, ông bà chính là bài học đầu đời mà bất kỳ ai cũng phải biết đến nếu muốn nên người. Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có rất nhiều bài ca dao nói về lòng hiếu kính của con cái với cha mẹ.
Hôm nay chúng ta hãy bình luận bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”…. Để thấy được bài ca dao như là một lời khuyên răn, giáo dục đạo làm con của ông cha ta từ xưa truyền lại.
Một bài ca dao đã thấm vào chúng ta từ thuở còn nhỏ. Thậm chí trở thành một bài ca dao ru con ngủ của cha mẹ. Bài ca dao đã quá đỗi quen thuộc, có lẽ ai cũng biết đến nó. Nó như là những lời truyền dạy con người. Dạy đạo làm con phải luôn kính hiếu và nhớ đến tình mẫu tử thiêng liêng.
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Công ơn của cha mẹ thật lớn lao biết bao. Công sinh thành ra con cái của cha mẹ, được ví tựa như núi “Thái Sơn” ví tựa “nước trong nguồn”. Hình ảnh núi Thái Sơn là một ngọn núi hùng vĩ ở Trung Quốc. Câu ca dao đã mượn hình ảnh này để nói lên một sự lớn lao về công ơn của người cha. Còn nước trong nguồn chính là dòng nước không bao giờ cạn. Nó chảy mãi chảy mãi như một sự vô tận. Và ví như sự vô cùng của nghĩa mẹ, ơn sinh thành ra con.
Ca ngợi công lao vừa to lớn, vừa bất tận của cha mẹ, bài ca dao muốn nhắc nhở mọi người về bổn phận làm con. Đạo làm con phải thờ mẹ kính cha, phải cho tròn chữ hiếu. Đạo là đường lối phải theo cho phù hợp với luân lí xã hội. Hiếu là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ.
Thờ, kính là sự yêu mến, sự tôn trọng và chăm lo một cách tôn kính. Toàn bài ca dao đã phản ánh một vấn đề đạo đức là làm con phải có hiếu với cha mẹ. Đó là hành vi đạo đức được bao đời ca ngợi.
Tại sao con cái phải có hiếu với cha mẹ?. Đó chính là vì công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái. Không có cây thì không có quả, không có người sinh thành thì không có bản thân mỗi người chúng ta. Công đức sinh thành của cha mẹ ta thật không gì sánh bằng. Biết ơn cha mẹ trước tiên và sâu xa nhất là biết đến công ơn này. Cha mẹ là người sinh ra ta, đồng thời cha mẹ cũng là người có công nuôi dưỡng ta bao năm tháng. Từ một đứa trẻ ngây thơ trở thành một trang thiếu niên có hiểu biết.
Cơm ăn, áo mặc hàng ngày, thuốc thang chữa trị khi ta đau ốm và biết bao vật dụng cho ta. Tất cả đều do công sức lao động gian lao, vất vả và tấm lòng bao la của cha mẹ. Ta hiểu biết điều hay lẽ phải, biết cách cư xử trong gia đình. Trong xã hội cũng nhờ công lao dạy bảo, giáo dục của cha mẹ. Rồi ta được đi học mở mang kiến thức, cũng là nhờ công lao và tình thương của cha mẹ.
Thật đúng là cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể. Để đáp lại sự sinh thành và dưỡng dục ấy, đạo làm con phải giữ tròn chữ hiếu. Đó chính là đền đáp xứng đáng của người con đối với cha mẹ. Và đây cũng là một tiêu chuẩn đạo đức của con người trong xã hội, trong cuộc sống.
Ngoài ra, câu ca dao còn rất đúng vì nó là một giá trị đạo đức to lớn, đem lại nhiều lợi ích trong cuộc sống. Nhất là nó không bị phai mờ mà còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chúng ta vẫn còn gặp những câu tục ngữ mang ý nghĩa tương tự:
“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông.”
Những lí lẽ và dẫn chứng trên đã một lần nữa khẳng định sự đúng đắn của câu ca dao trên. Khẳng định đó cũng chính là một chân lí của cuộc sống. Một cơ sở đạo đức của xã hội, của con người.
Tuy nhiên, hiếu với cha mẹ đồng thời phải hiếu với nhân dân như Bác Hồ đã dạy: Trung với Đảng, hiếu với dân. Một người con có hiếu với cha còn phải là một người con của nhân dân. Có hiếu với nhân dân, một lòng phục vụ nhân dân. Khi Tổ quốc và nhân dân yêu cầu, người con có hiếu đó vẫn có thể tạm gác việc nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ để lo việc dân, việc nước. Trong trường hợp đó, hiếu với dân cũng là hiếu thảo với cha mẹ. Biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng đã phải gác lại tình cha nghĩa mẹ để dấn thân vào cuộc đấu tranh. Một mất một còn với kẻ thù mà lòng vẫn canh cánh rằng chữ hiếu vẫn chưa tròn.
Họ không phụng dưỡng được cha mẹ lúc tuổi già nhưng vẫn một lòng thờ mẹ kính cha, họ vẫn là người con chí hiếu.
Lời dậy trong bài ca dao là như thế. Thế nhưng người con phải hiếu kính như thế nào với cha mẹ?. Đó là phải yêu thương, kính trọng cha mẹ. Nghe lời dạy bảo của cha mẹ, tuân theo những lời chỉ bảo đúng đắn của cha mẹ. Phải luôn làm cha mẹ vui lòng bằng cách chăm chỉ học hành, giúp đỡ việc nhà giúp cha mẹ…
Khi cha mẹ ốm đau phải ân cần chăm sóc, phụng dưỡng bằng tất cả tình cảm quý trọng. Có rất nhiều cách để người con thể hiện sự hiếu kính với cha mẹ.
Một gia đình có con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ sẽ tạo nên một gia đình đầm ấm hạnh phúc. Người con đó cũng sẽ là tấm gương cho bạn bè cùng trang lứa noi theo, và sẽ trở thành một người công dân tốt trong xã hội.
Tấm gương hiếu thảo với cha mẹ sẽ được mọi người trong xã hội tôn trọng, và chúng ta sẽ mãi mãi phải ghi nhớ phát huy truyền thống tốt đẹp này.
Bài ca dao chính là một đạo lý chân lý vô cùng tốt đẹp của truyền thống dân tộc Việt Nam ta. Nó cũng là thời khuyên bảo thực sự có giá trị. Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ đó mới chính là đạo làm người. Cha mẹ đã có công ơn sinh thành, dạy bảo con nên người trở thành người có ích trong xã hội. Cái công ơn đó như “Núi cao biển rộng mênh mông – Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi” và con cũng sẽ không thể nào quên được.
Câu 2
Tình yêu quê hương, đất nước là một chủ đề lớn của văn học dân tộc. Đọc mỗi câu thơ, bài văn ta không khỏi bồi hồi, xúc động trước tình cảm mà tác giả biểu lộ với nơi mình được sinh ra: “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi/ Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá” (Tế Hanh). Nằm trong chuỗi đề tài lớn ấy, ta không thể không nhớ đến một ông Hai với lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu làng tha thiết trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.
Cuộc kháng chiến diễn ra ngày một ác liệt, ông Hai sinh sống ở làng chợ Dầu phải tản cư đi nơi khác. Trong những ngày rời xa ngôi làng yêu dấu lòng ông không ngừng thổn thức nhớ về quê hương. Ông chăm chú lắng nghe từng tin về kháng chiến, về làng. Và đỉnh điểm của tình yêu đó chính là khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông Hai bị đặt trong tình thế phải lựa chọn giữa làng và nước. Cuối cùng ông Hai đã chọn tình yêu nước, bởi làng đã theo giặc thì phải thù. Như vậy, tiếp tục khai thác về lòng yêu nước, nhưng bằng ngòi bút tinh tế Kim Lân đã phát hiện ra nét mới trong tình yêu nước của người nông dân.
Trong những ngày phải sinh sống ở làng tản cư, ông Hai không ngừng nhớ thương về ngôi làng. Làm sao không nhớ cho được nơi chôn rau cắt rốn của mình, đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Ông Hai cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Mặc dù cuộc sống lao động vất vả, nhưng trong những phút rảnh rỗi ông vẫn mường tượng nhớ về những công việc mình đã làm với các đồng chí, đồng đội: đào, cuốc, đắp ụ, xẻ hào,… Mỗi lần hồi tưởng làm ông lại có động lực hơn, lòng yêu nước lại mạnh mẽ hơn. Ngày nào ông cũng nghe ngóng tin tức, bụng ông như múa lên mỗi lần nghe được một tin thắng trận của ta. Những hành động đôi khi có phần trẻ con, nhưng đó chính là biểu hiện chân thực nhất của lòng yêu nước nồng nàn trong ông và cũng như của tất cả những người Việt Nam khác.
Nhưng mọi chuyện đối với ông lại không hề suôn sẻ, những ngày tháng ở làng tản cư, khi lòng nhớ làng lúc nào cũng sục sôi thì bỗng ông nhận được tin dữ ấy là làng mình theo giặc. Cái tin đó chẳng khác gì gáo nước lạnh đổ thẳng vào lòng nhiệt thành và trái tim yêu làng cháy bỏng của ông. Bàng hoàng và sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Làm sao ông có thể không bàng hoàng cho được, cái tin đó quá đỗi bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của ông. Như để xác minh lại thông tin, ông Hai còn cố gắng hỏi lại người đàn bà: “Liệu có thật không hở bác”. Giọng nói run run, nghẹn ứ và sau khi nghe lời xác nhận, ông lặng lẽ vươn vai, rồi hắng giọng về. Câu nói đưa đẩy ấy chất chứa bao tâm tư, bao nỗi lòng trong ông. Trên đường về ông chẳng dám nhìn ai, cứ thế cúi gằm mặt mà đi.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy cha có vẻ khác cũng vội lảng đi. Như để kiểm chứng lại lần cuối, ông Hai kiểm điểm trong đầu từng người trong làng, ông hoang mang lo lắng. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước nồng nàn và sự trung thành với cách mạng nơi ông. Không chỉ vậy, cái tin làng theo giặc cứ đeo bám, ám ảnh ông khiến ông không dám tiếp xúc với mọi người, nỗi nhục nhã, xấu hổ trào dâng trong lòng. Ông Hai đã đồng nhất danh dự của làng với danh dự của chính mình, khiến cho cái tin làng theo giặc cũng như chính ông đang theo giặc. Bởi vậy nỗi đau đớn, tủi hổ lại càng chồng chất lên gấp bội.
Tin làng chợ Dầu theo giặc lan nhanh khắp mọi nơi, gia đình ông phải đối mặt với một nguy cơ mới chính là bị mụ chủ nhà đuổi đi. Sự việc ấy, không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ông mà còn ảnh hưởng đến gia đình ông cũng như rất nhiều người sống ở làng chợ Dầu khác. Đêm đó trong ông Hai đã diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng quyết liệt, đi hay ở. Và cuối cùng ông quyết định không về làng, bởi về làng là theo giặc, là phản bội lại cách mạng và Bác Hồ, “làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Bản chất của ông Hai là người yêu làng tha thiết, nhưng cao hơn cả ông là người yêu nước, tình yêu nước là tình cảm bao trùm tình yêu làng.
Với ngòi bút phân tích tâm lí vô cùng xuất sắc, cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện tài tình, Kim Lân đã liên tục tạo ra những bước ngoặt tâm lí, để câu chuyện hấp dẫn, sinh động, hơn hết là để thấy được vẻ đẹp của nhân vật chính – ông Hai. Những ngày ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đớn đau, tủi nhục bao nhiêu thì ngày nghe tin cải chính lòng ông vui sướng, trẻ lại bấy nhiêu. Lúc bấy giờ ông Hai chẳng khác gì một đứa trẻ con, ông đi khoe ở khắp nơi, làng bị Tây đốt nhẵn với giọng hồ hởi, sung sướng. Tài sản, nhà cửa đối với ông lúc này đâu còn nghĩa lí, cao hơn đó chính là danh dự của ông, danh dự của làng đã được khôi phục. Bản chất hồn nhiên, chất phác của người nông dân lúc này được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Kim Lân không sáng tác nhiều, nhưng chỉ với tác phẩm này cùng nhân vật ông Hai đã cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy. Ông Hai hiện lên là người yêu làng, yêu nước tha thiết, sâu nặng, tình yêu đó gắn liền với danh dự và mạng sống của ông. Chỉ với lớp ngôn từ chân thành, giản dị, nhưng cũng đủ để Kim Lân cho người đọc thấy một vẻ đẹp rất khác của lòng yêu nước ở những người nông dân chất phác, lương thiện.