Đáp án:
Giải thích các bước giải:
Sán dây lợn và sán dây bò được phân biệt căn cứ vào đặc điểm hình thể của sán trưởng thành, trứng sán, nang ấu trùng sán, vật chủ trung gian và hình thức nhiễm sán.
Sán dây lợn trưởng thành có đầu với 2 vòng móc, chiều dài khoảng 2 đến 3 mét; có từ 800 đến 1.000 đốt sán. Đốt sán già có chiều dài khoảng 10 đến 12 mm, tử cung chia nhánh 6 – 8 – 12. Các đốt sán thường rụng thành từng khúc; đốt sán già ngắn, có 5 đến 6 đốt liền nhau theo phân ra ngoài. Trứng sán có hình cầu, đường kính 35 đến 36 µm. Nang ấu trùng được gọi là nang sán gạo lợn, tên khoa học là Cysticercus cellulosae dễ nhận biết. Vật chủ trung gian của sán dây lợn là lợn, đây là điều kiện bắt buộc; ngoài ra người, lợn rừng, chó... cũng có thể là vật chủ trung gian truyền bệnh. Hình thức nhiễm sán dây lợn là do ăn thịt lợn sống có ấu trùng sán, ăn phải trứng sán hoặc đã có nhiễm sẵn sán rồi bị nôn đốt sán già từ ruột non lên dạ dày.
Sán dây bò trưởng thành ở đầu không có vòng móc, chiều dài khoảng 4 đến 12 mét; có từ 1.2000 đến 2.000 đốt sán. Đốt sán già dài 18 đến 20 mm, tử cung chia nhánh 18 – 35. Các đốt sán già thường rụng thành từng đốt, tự động bò ra ngoài hậu môn không cần theo phân. Trứng sán có hình bầu dục với kích thước 30 – 40 µm x 20 – 30 µm. Nang ấu trùng còn gọi là nang sán gạo bò, có tên khoa học là Cysticercus bovis khó nhận biết. Vật chủ trung gian của sán dây bò là trâu, bò; đây là điều kiện bắt buộc; người cũng có thể là vật chủ trung gian truyền bệnh nhưng hiếm. Hình thức nhiễm sán dây bò là do ăn thịt bò, thịt trâu còn sống, chưa được nấu chín