1)Vì sao buổi tối chúng ta không thể nhìn thấy nhìn thấy rõ vật và màu sắc cua vật?
Võng mạc mắt cảm nhận ánh sáng chủ yếu nhờ các tế bào hình nón (cone) và hình que (rod). Tế bào que chiếm số lượng ít hơn trong mắt nhưng rất nhạy cảm với ánh sáng. Con người sử dụng tế bào que trong võng mạc để xác định kích thước, hình dạng và độ sáng tối của vật thể. Tuy vậy, tế bào que không giúp người ta nhìn thấy màu sắc và chi tiết của vật thể, để làm được điều này, mắt cần sử dụng các tế bào nón.
Có ba loại tế bào hình nón, mỗi loại lại cảm nhận được chính xác từng màu sắc khác nhau trong ba màu : Đỏ (red), xanh lá cây (Green), xanh da trời (Blue). Mỗi một màu sắc khác nhau có thể được cấu thành bởi sự kết hợp theo “liều lượng” khác nhau của ba màu cơ bản này và mắt của chúng ta sẽ cảm nhận được màu sắc đó dựa trên việc từng loại tế bào nón trong võng mạc cảm nhận chúng như thế nào.
Các tế bào nón có thể cảm nhận được màu sắc chỉ bắt đầu từ cường độ ánh sáng của đêm trăng sáng cho tới ánh sáng thường ban ngày. Trong điều kiện ánh sáng yếu, tế bào nón không đủ nhạy cảm để cảm nhận được và lúc này chúng ta chỉ còn sử dụng các tế bào que. Bởi vì tế bào que thì không thể cảm nhận được màu sắc và chi tiết của vật thể nên trong điều kiện ánh sáng yếu, chúng ta chỉ có thể thấy được các màu đen/trắng cũng như vật thể hình khối không rõ ràng.
3)Trẻ em bị mù bẩm sinh là do đâu?
thường gặp nhất là bệnh ROP, glôcôm bẩm sinh, đục thủy tinh thể và bướu nguyên bào võng mạc.
+Bệnh võng mạc trẻ sinh non (ROP) là bệnh mắt do sự phát triển bất thường của mạch máu võng mạc ở trẻ sinh non hay thiếu tháng, nhẹ cân. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời trẻ có nguy cơ mù vĩnh viễn cả hai mắt. Những trẻ cần khám mắt để phát hiện bệnh ROP là trẻ cân nặng lúc sinh dưới 1,5kg, hoặc tuổi thai lúc sinh dưới 33 tuần; cân nặng lúc sinh từ 1,5-2kg nhưng bị ngạt khi sinh, nằm lồng ấp, thở oxy kéo dài, có những bệnh khác kèm theo; cân nặng lúc sinh 1,5-2kg và đa thai (sinh đôi, sinh ba).
+Glôcôm bẩm sinh (còn gọi cườm nước) là bệnh có thể gây biến chứng không hồi phục như mờ mắt, mù lòa. 80% các trường hợp glôcôm bẩm sinh xảy ra ở bé trai, chỉ có 20% là ở bé gái. Có thể nhận biết bệnh glôcôm khi thấy mắt trẻ to ra hơi khác thường, mắt không trong suốt, trẻ sợ ánh sáng, nheo mắt khi ra nắng, chảy nước mắt sống. Nếu bệnh chỉ xảy ra ở một mắt, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt về màu sắc và kích thước giữa hai mắt: mắt to và màu xanh thường là mắt bệnh. Khi phát hiện các dấu hiệu này phải đưa trẻ đi khám mắt ngay.
+ đục thủy tinh thể (TTT) bẩm sinh sẽ làm ánh sáng không vào đến được võng mạc, gây mờ mắt. Tùy mức độ TTT bị đục mà thị lực bị giảm nhiều hoặc ít.
Nguyên nhân bệnh có thể do di truyền, hoặc do mẹ bị nhiễm siêu vi lúc mang thai... Trẻ có thể bị bệnh từ lúc mới sinh ra, có trẻ bị từ 3-4 tuổi. Ở trẻ nhỏ, khi đục TTT còn ít, chưa ảnh hưởng đến thị lực, chưa cần điều trị, chỉ cần khám theo dõi định kỳ. Nếu đục TTT ảnh hưởng một phần thị lực, cần điều trị với kính hoặc điều trị nhược thị. Khi đục TTT nhiều gây mờ mắt, ảnh hưởng đến việc học của trẻ, cần phải phẫu thuật.
+Bướu nguyên bào võng mạc là bệnh ung thư ở mắt, thường xảy ra chủ yếu ở trẻ dưới 5 tuổi. Bệnh biểu hiện rất âm thầm và khó phát hiện ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên, gia đình nên chú ý quan sát mắt trẻ ngay sau khi chào đời và phát hiện những dấu hiệu bất thường sớm dù chỉ là chảy nước mắt, lé, đỏ, đau. Khám định kỳ mắt cho trẻ ít nhất mỗi năm một lần. Những biểu hiện thường thấy của bệnh bướu nguyên bào võng mạc (giai đoạn tương đối muộn) là đồng tử trắng: mắt bé sáng trắng, nhất là vào ban đêm như ánh mắt mèo; lé nhẹ cũng là dấu hiệu thường gặp; mắt đỏ, đau nhức; giảm thị lực; sưng tấy hốc mắt; lồi mắt; chảy máu trong mắt không do chấn thương. Song cũng có một số trường hợp không có biểu hiện bất thường, chỉ phát hiện tình cờ khi khám sức khỏe định kỳ tại trường học.