*Những nét chính :
- Từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tiếp mở các cuộc tấn công vào phòng tuyến của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
+ Chiến dịch trung du ( Chiến dịch Trần Hưng Đạo) từ 25/12/1250 đến 17/1/1951, quân ta đánh vào hệ thống phòng ngự của địch ở Vĩnh Yên, Phúc yên.
+ Chiến dịch đường số 18 (chiến dịch Hoàng Hoa Thám) từ 20/3 đến 7/4/1951, quân ta tấn công từ Phả Lại đến Uông Bí, tiêu diệt 14 vị trí của địch.
+ Chiến dịch Hà - Nam - Ninh (chiến dịch Quang Trung) , từ 28/5 đến 20/6/1951, quân ta tấn công địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
- Từ năm 1951 đến năm 1953, quân ta mở chiến dịch ở miền núi.
+ Từ giữa tháng 11/1951 đến tháng 2/1952, ta mở chiến dịch phản công địch ở Hòa Bình. Chiến dịch Hòa Bình kết thúc sau hơn 3 tháng (từ 14/11/1951 đến 25/2/1952). Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 tên địch, giải phóng hoàn toafnkhu vực Hòa Bình.
+ Từ ngày 14/10/1952 đến ngày 10/12/1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái. Kết thúc chiến dịch, ta đã loại hỏi vòng chiến đấu hơn 13.000 địch, giải phóng 28.500km vuong với hơn 25 vạn dân, gồ toàn tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La.
+ Đầu năm 1953, quân ta phối hợp với quân dân Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Trong ơn 1 tháng chiến đấu, quân dân Việt _ Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.800 địch; giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxali với 30 vạn dân.
* So sánh :
- Các chiến dịch ta mở ở trung du, đồng bằng chưa phải là sở trường của ta nên kết quả chiến đấu bị hạn chế.
- Các chiến dịch ta mở ở miền núi đúng với sở trường của ta nên thu được những thắng lợi to lớn, tiếp tục đẩy địchvào thế bị động đối phó, tiếp tục đưa cuộc kháng chiến của ta tiến lên một bước phát triển mới.