Đáp án đúng:
Phương pháp giải:
- Căn cứ các kiến thức đã học ở bài Người lái đò Sông Đà.
- Kết hợp kỹ năng viết nghị luận văn họcGiải chi tiết:I. Giới thiệu chung
- Dẫn dắt, giới thiệu cuộc giao tranh quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo trong đoạn văn bản được trích dẫn
- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân
- Giới thiệu tác phẩm: Người lái đò Sông Đà
II. Phân tích cuộc giao tranh quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo trong đoạn văn bản
1) Tương quan lực lượng
- Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức:
+ một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm
+ một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo
- Tác dụng: miêu tả thiên nhiên dữ dội, nguy hiểm là để tôn vinh sức mạnh, vẻ đẹp trí tuệ và lòng dũng cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Giả sử đặt ông lái trong khung cảnh thi vị trữ tình của Sông Đà thì nhân vật sẽ trở thành một nghệ sĩ đa tình, lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Trong cuộc chiến dữ dội này, ông lái trở thành người anh hùng- nghệ sĩ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác
2) Diễn biến cuộc giao tranh quyết liệt
a) Cuộc vượt thác lần một
* Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt
- Đá
Đó là “đám tảng đám hòn”, “hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”.
+ Đá ở con thác này biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn Tử, gồm năm cửa trận, trong đó “có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”.
+ Cửa sinh lại chia làm ba hàng- tiền vệ, trung vệ, hậu vệ- đòi ăn chết con thuyền đơn độc “chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn”.
“Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa”.
Tuyến trung vệ chính là “nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại” để con thuyền đối phương bất ngờ không kịp trở tay.
Tuyến hậu vệ là những boong-ke chìm và pháo đài nổi nhận nhiệm vụ “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”.
-> Khi cái thuyền vụt tới, đá trở nên “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, hòn thì như “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, hòn thì như “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào”.
- Nước thác: Khi thạch trận bày xong, đá phối hợp với nước nước:
+ thác nước hò la vang dậy như “thanh la não bạt” (nhạc cụ gõ bằng đồng tạo âm thanh náo nhiệt) làm thanh viện cho đá, uy hiếp tinh thần của người lái đò
+ rồi chúng còn “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí” trên tay ông lái.
+ cả trận địa sóng nước hùng hổ phóng thẳng vào ông lái, chúng “như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên”
+ chúng lại như đô vật đòi “túm lấy thắt lưng ông đò mà lật ngửa mình ra”.
+ Và chúng dùng đến cả miếng đòn hiểm độc nhất, “cả luồng nước… bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò” để mau chóng kết thúc cuộc chiến
* Người lái đò:
- “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Đây là đoạn văn hào sảng nhất, mang đậm âm hưởng anh hùng ca mà nhà văn NT tập trung bút lực để khắc họa hình ảnh con người hiên ngang vượt lên sóng to thác dữ của sông nước. Con người mang tâm thế hoàn toàn chủ động, sẵn sàng trong cuộc chiến với thiên nhiên.
+ Trước sự hung hãn của bầy thạch tinh và sóng nước, ông lái đò kiên cường bám trụ “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”
+ Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất
* Kết quả cuối cùng: “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất”
b) Cuộc vượt thác lần hai:
* Sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn
- Đá
+ Khúc sông này càng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, và cũng chỉ có một cửa sinh.
+ Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”
- Nước thác
+ Phối hợp với đá là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh (lao nhanh) trên sông đá”, dòng chảy của thác nước mang sức mạnh của hổ báo đang lao chạy hết tốc lực hết sức dữ dằn
+ Cùng với đó là bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ xô ra, đòi “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Dòng sông như con thú hoang đang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền
* Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”
- Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ. Mặc cho Đà giang hung dữ, ác hiểm, ông vẫn nắm chắc bờm sóng, “ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Sự thành thạo, chính xác, dũng mãnh thể hiện trong từng động tác mạnh mẽ “nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết” của ông đò
- Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò “vốn nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “vẫn nhớ mặt bọn này”, nên không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”
* Kết quả cuối cùng: “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”
=> Để chiến thắng ở vòng vây này, ông đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Ông đò đã cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng, qua bộ mặt xanh lè. Kết quả cuộc vượt thác lần hai, ông lái đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông
c) Cuộc vượt thác lần ba
* Sông Đà: Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”- là đội quân vững chãi, chắc chắn và giàu kinh nghiệm nhất. Trong bối cảnh đó, cơ hội chiến thắng của ông đò thật mong manh
* Người lái đò:
- Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang.
-> Đoạn văn là sự thăng hoa và kết tụ của tay lái thuần thục, tay lái ra hoa. Đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện, mỗi động tác của người lái đò giống như một đường cọ trên bức tranh sông nước mênh mông… Cuộc vượt thác trở thành cuộc biểu diễn nghệ thuật hoàn hảo, chính xác đẹp mắt trong từng cử chỉ, động tác
-> Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở ông lái đò. Đây là cách viết phù hợp với quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, phù hợp với cái nhìn rộng mở của ông về phẩm chất tài hoa, nghệ sĩ. Theo ông, chất tài hoa, nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Khi con người đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc của mình là khi họ bộc lộ nét tài hoa nghệ sĩ rất đáng được đề cao.
* Kết quả cuối cùng: Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng
=> Nhận xét về hình tượng Sông Đà và người lái đò trong cuộc giao tranh:
* Sông Đà: Sông Đà tích tụ từ hàng nghìn năm sức mạnh bản năng hoang sơ của thiên nhiên, cộng thêm vào đó còn là sự nổi nóng giận dữ trong nỗi đau tình yêu không thể nguôi ngoai của nhân vật thần thoại Thủy Tinh:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen
-> Sông Đà hiện lên như một thứ kẻ thù số một của con người. Tuy nhiên, đặc điểm đó cũng chính là tiềm năng thủy điện to lớn của sông Đà -> nhà văn đã sớm dự cảm về vai trò to lớn của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước
* Người lái đò
Tỏa sáng những vẻ đẹp: dũng cảm (vòng 1), trí tuệ (vòng 2) và tài hoa (vòng 3)
Người lái đò hiện lên như một chiến sĩ trên mặt trận sông nước, người chỉ huy gan dạ, một lão tướng dẻo dai, kiên cường. Nhưng với Nguyễn Tuân, như thế vẫn là chưa đủ. Còn một phương diện khác của vẻ đẹp mà ông đặc biệt quan tâm, đó là chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ bó hẹp ở những người thuần túy làm công việc về nghệ thuật- chất tài hoa nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác ghềnh
III. Đánh giá chung
a) Giá trị nội dung tư tưởng
Cuộc giao tranh đã tôn vinh hình ảnh người lao động bình dị- người lái đò trí dũng và tài hoa đã nổi bật trên dòng sông hung bạo, có khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người, xây dựng đất nước. Đó chính là chất vàng mười của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động ViệtNam nói chung trong thời kì mới- thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước, xây dựng CNXH
b) Đặc sắc nghệ thuật
- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình. Nhà văn đã miêu tả cuộc vượt thác như một trận "thủy chiến". Càng nhấn mạnh thách thức ghê gớm của "thạch trận" sông Đà, tác giả càng khắc họa được sinh động sự từng trải, mưu trí, gan dạ và tài hoa của ông lái đò.
- Để có thể miêu tả được trận "thủy chiến" sinh động, nhà văn đã huy động vốn hiểu biết uyên bác của mình về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quân sự và võ thuật, ...
- Nguyễn Tuân đã sử dụng một ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn phù hợp với đối tượng. Tác phẩm có rất nhiều từ dùng mới mẻ cùng lối nhân hóa độc đáo (nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng) và những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác (nắm chặt lấy được cái bờm sóng, ông đò ghì cương lái, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,...)
- Sử dụng thể tùy bút pha kí, kết cấu phóng túng, thể hiện đậm nét cái tôi của tác giả.