1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Viễn Phương là một trong những cây bút trong thời kì giải phóng miền Nam chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông giàu cảm xúc nhưng không bi lụy, thơ ông nền nã, thì thầm, bâng khuâng
+ Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào viếng lăng Bác
- Giới thiệu 2 khổ cuối: thể hiện sâu sắc và cảm động tinh thần kính yêu lãnh tụ và ý nguyện muốn được dâng hiến đời mình bồi đắp thêm cho vẻ đẹp của đất nước
2. Thân bài
* Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn phương ra Bắc thăm Bác, đứng trước một con người vĩ đại của nhân loại, không kiềm được nỗi xúc động trào dâng. Tác giả viết bài thơ Viếng lăng Bác. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
* Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng: Khổ 3
- Viễn Phương luôn khao khát được viếng thăm lăng Bác, sau ngày đất nước giải phóng, ông đã có dịp thực hiện ước nguyện ấy.
- Khổ thơ thứ ba diễn tả thật xúc động cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thơi gian và không gian ở bên trong lăng Bác. Sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác được tác giả miêu tả rất tinh tế.
”… Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng diệu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
+ “ giấc ngủ bình yên” diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cũng như ánh sáng dịu nhẹ trong không gian ở lăng Bác.
+ “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác
+ Hình ảnh vầng trăng, biểu tượng của thiên nhiên rộng lớn và tươi đẹp luôn ăm ắp trong thơ Người lúc nhàn hạ
+ Tác giả đã khẳng định Bác sống mãi trong lòng dân tộc vĩnh hằng như trời xanh không bao giờ mất đi.
+ Cảm xúc ấy đã được chứng thực khi đọc đến câu thơ: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”
-> nhà thơ không thể trách khỏi một sự thật đau lòng, một sự thật mà nhân dân cả nước Việt nam phải chịu đựng. Bác như một vì tinh tú tảo sáng soi đường cho con dan và vì tinh tú ấy có lẽ mãi mãi bất tử trong trái tim người Việt Nam
* Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ trước lúc khi trở về miền Nam: khổ 4
- Khổ thơ cuối bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam
“Mai về niềm Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
+ “thương trào nước mắt” : gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng
+ điệp ngữ: “muốn làm” thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, làm cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác.
-> Nguyện ước của tác giả cũng chính là của toàn thể con dân Việt NAm, Mỗi người đều luôn nhớ ơn công lao to lớn vĩ dại của Bác.
* liên hệ bản thân;
- Ngày nay để nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Thế hệ trẻ luôn cố gắng ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.
3. kết bài
- Tổng kết vấn đề