I, Dàn ý tham khảo
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Huy Cận
+ Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
+ Phong cách sáng tác: Trước cách mạng tháng Tám, ông viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ. Tất cả đều gợi nỗi buồn của một con người gắn bó với quê hương, đất nước nhưng cô đơn bất lực. Sau Cách mạng tháng Tám, những vần thơ của ông trở nên sôi động, huyên náo hơn.
- Giới thiệu tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá“
+ Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá“ viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai - Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”.
- Giới thiệu khái quát về hai khổ thơ đầu và cuối bài thơ.
B. Thân bài
1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Mặt trời xuống biển như hồn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
- Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết "Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào " với "hòn lửa".
+ Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ nặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một mầu đỏ rực rỡ và huy hoàng.
+ Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945.
- Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt , màn đêm từ từ buông xuống : "Sóng đã cài then đêm sập cửa" trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy.
=> Liên hệ:
Hơn hết, cảnh đoàn thuyền đánh ca ra khơi làm cho ta liên tưởng đến bài thơ "Quê hương" của tác giả Tế Hanh. Ông cũng đã đề cập đến khung cảnh người dân miền biển ra khơi đánh cá:
"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá"
Nếu như người dân miền biển trong thơ Huy Cận ra đi đánh cá vào buổi tối thì người dân trong thơ Tế Hanh lại đi chinh phục biển khơi vào buổi sáng. Thật là thú vị, độc đáo. Thể hiện những nét riêng của hai nhà thơ.
2. Khổ thơ thứ hai
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đong như đoàn thoi
Ngày đêm dệt biển muôn luồng sáng
- Mở đầu khổ thơ là cụm từ “Hát rằng”. Tiếng hát vừa diễn tả niềm vui của ngư dân vừa ngợi ca biển cả giàu đẹp. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá bạc, cá thu.
- Loại cá đầu tiên Huy Cận nhắc đến là cá bạc, loài cá cỡ nhỏ nhiều vô kể đã làm cho biển đông như lặng im. Còn cá thu cũng là loài cá ngon, quý hiếm. Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là đàn thoi vun vút qua lại.
3. Khổ thơ cuối
- Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa "mặt trời đội biển" gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái "màu biển" là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù.
- Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai - Quảng Ninh, được in trong tập "Trời mỗi ngày mỗi sáng". Bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ đầu của bài.
Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.
Mặt trời xuống biển như hồn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết "Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào với "hòn lửa". Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ nặn xuống biển xanh , cả không gian vũ trụ như nhuốm một mầu đỏ rực rỡ và huy hoàng . Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945 . Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp". Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả "mặt trời xuống biển" (trong khi biển nước ta là biển đông - một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn "xuống biển"?
Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt , màn đêm từ từ buông xuống : "Sóng đã cài then đêm sập cửa" trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình. Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khác họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm vùng gió khơi
Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ. Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát. Đây là một hình ảnh bay bổng thể hiện sự tưởng tượng liên tưởng độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, tiếng hát đã bộc lộ niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình của lao động của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.
Đếm khổ thơ thứ hai, người đọc như lạc vào không gian sống động vui tươi:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đong như đoàn thoi
Ngày đêm dệt biển muôn luồng sáng
Mở đầu khổ thơ là cụm từ "Hát rằng". Tiếng hát vừa diễn tả niềm vui của ngư dân vừa ngợi ca biển cả giàu đẹp. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá bạc, cá thu. Loại cá đầu tiên Huy Cận nhắc đến là cá bạc, loài cá cỡ nhỏ nhiều vô kể đã làm cho biển đông như lặng im. Còn cá thu cũng là loài cá ngon, quý hiếm. Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là đàn thoi vun vút qua lại. Cái hay của khổ thơ còn ở pháp nhân hóa tinh tế. Trong tưởng tượng của những ngư dân yêu quý biển cả, cá bơi trên biển là cá “dệt biển”. Những con cá lấp lánh trong ánh trăng, lướt nhanh trên mặt biển muôn luồng sáng làm cho biển đem lung linh, rực rỡ. Cũng trong sự tưởng tượng thú vị ấy, cá vào lưới là cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi".
Hơn hết, cảnh đoàn thuyền đánh ca ra khơi làm cho ta liên tưởng đến bài thơ "Quê hương" của tác giả Tế Hanh. Ông cũng đã đề cập đến khung cảnh người dân miền biển ra khơi đánh cá:
"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá"
Nếu như người dân miền biển trong thơ Huy Cận ra đi đánh cá vào buổi tối thì người dân trong thơ Tế Hanh lại đi chinh phục biển khơi vào buổi sáng. Thật là thú vị, độc đáo. Thể hiện những nét riêng của hai nhà thơ.
Sau một đêm đánh cá vất vả đoàn thuyền lại trở về vào lúc bình minh:
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời"
Câu thơ "câu hát căng buồm" với gió khơi, gần như nguyên vẹn câu thơ trong khổ đầu tiên. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên. Tiếng hát biểu hiện cho niềm vui của những người đánh cá khi được hưởng thành quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên hùng tráng khi đoàn thuyền đang rẽ sóng trở về. Nhà thơ nhân hóa "đoàn thuyền" đang "chạy đua cùng mặt trời, chạy đua cùng thời gian. Hai tiếng "chạy đua" cho ta thấy những người đan chài mặc dù suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế của họ vẫn mạnh mẽ. Huy Cận đã nâng cao người lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người thật xứng đáng với tầm vóc chủ nhân biển cả, vẫn muốn giành thời gian để lao động, để cống hiến.
" Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".
Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa "mặt trời đội biển" gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái "màu biển" là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù. Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá. Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.
Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ.
Thật vậy, "Đoàn thuyền đánh cá" chính là khúc ca tráng về lao động và thiên nhiên đất nước. Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận sau cách mạng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.