Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
=> Hai câu thơ gợi ra trước mắt ta hình ảnh 1 đoàn thuyền đánh cá bề thê, hùng dũng đang băng băng lướt sóng. Sau khi rời bến, đoàn thuyền ra khơi và đang lướt đi "giữa mây cáo với biển bằng", giữa không gian bao la và khoáng đạt.
- Thiên nhiên như mở rộng ra, bát ngát, mênh mông trên là trời cao có trăng tỏ, dưới là biển rộng bao la và đoàn thuyền đã lướt nhah khoảng cao rộng ấy.
- Động từ "lướt" khiến cho đoàn thuyền trở nên mạnh mẽ hơn như một đoàn quân ra trận.
=> Con thuyền hòa nhập vào thiên nhiên nhưng không hề bị lấn át, không hề trở nên nhỏ bé mà ngược lại đó lại trở thành 1 hình ảnh trung tâm vừa đẹp, vừa khỏe khoắn.
- Đoàn thuyền ấy càng đẹp khi có gió biển thổi làm người lái dẫn thuyền và trăng đậu trên cánh buồm tất cả khiến tác giả liên tưởng như trăng làm buồm đưa thuyền lướt sóng. Con thuyền không phải của "ta" mà trở thành con thuyền của thiên nhiên. Dường như thiên nhiên đã cùng với con người, thay thế con người chỉ huy và điều khiển con thuyền.
- Nếu như khi đoàn thuyền ra khơi, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi "mặt trời xuống biển" , "sóng cài then" , "đêm sập cửa" thì ở đây con người đã đánh thức thiên nhiên, làm sống động vũ trụ, để thiên nhiên, vũ trụ cùng lao động với con người.
- Hình ảnh ẩn dụ và biện pháp nói quá " lái gió" , "buồm trăng" không làm cho câu thơ khiên cưỡng mà trái lại đã lột tả một cách tài tình khí thế hùng dũng của đoàn thuyền và ý chí chinh phục biển khơi của con người. Công việc nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
=> Lòng tin yêu con người, cuộc sống và trí tưởng tượng bay bổng đã giúp nhà thơ Huy Cận xây dựng được những hình ảnh thơ tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
=> Con thuyền vươn ra xa "Ra đậu dặm xa" để đi tìm những luồng cá mới "dò bụng biển," để phát triển kinh tế, làm giàu cho quê hương, đất nước.
- Động từ : ra đậu, dò, dàn đan, vây giăng
=> Công việc đánh cá diễn ra khẩn trương, nghiêm túc như 1 trận đánh.
Như vậy , tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hòa nhập bước kích thước cuả vũ trụ. Không còn là cảm giác nhỏ bé, lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng , sông dài như trong thơ của Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người cũng có tâm hồn vui vẻ, phơi phới.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
=> Vẻ đẹp và giàu có của biển cả quê hương đã được nhà thơ Huy cận khắc họa qua vẻ đẹp của loài cá trên biển.
- Nghệ thuật liệt kê: cá nhụ, cá chim,..."
=> Gợi tả giàu có của biển quê hương
- Các loài cá mang lại giá trị kinh tế cao.
- Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp. Biển thơ mộng và lộng lẫy. Hòa cùng không gian bao la, sóng nước, giữa ánh sáng dịu dàng, mờ ảo của ánh trăng trên biển là vẻ đẹp muôn màu của các loài cá
- Tính từ : lấp lánh, đen hồng, vàng chóe => Biển đêm giống như 1 bức tranh sơn mài nên thơ và lãng mạn.
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo và sáng tạo của nhà thơ Huy Cận. Những con cá song thân mình có những chấm đen và hồng khiến nhà thơ liên tưởng đến những ngọn đuốc.
=> Đàn cá bơi lội trên mặt biển => Rước đuốc để nghênh đón những người dân chài.
- Câu thơ : Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
=> Ánh trăng chiếu xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe => Nghệ thuật nhân hóa qua từ "em" : thể hiện cái nhìn say sưa, triuf mến của nhà thơ cũng như người dân chài với biển cả bao la.
- Các tính từ chỉ màu sắc -> biển đêm rực rỡ như 1 bức tranh sơn mài.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
=> Đêm cảm nhận như 1 sinh vật đại dương. Ánh sao lùa sóng nước, hòa cùng tiếng gió và tiếng gõ thuyền làm nên tiếng thở của đêm.