I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2, Thân bài
a, Hình tượng con sông Đà
- Vẻ đẹp dữ dội, ngang tàng
- Vẻ đẹp lãng mạn, hiền hòa
b, Hình tượng người lái dò
- Vẻ đẹp trí dũng
- Vẻ đẹp tài hoa
3, Kết bài
- Đánh giá về nội dung, nghệ thuật, phong cách của tác giả
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Từ lâu, những con sông và dòng nước chảy dài theo năm tháng thời gian đã trở thành những hạt giống nảy mầm cho biết bao tác phẩm văn chương vô giá. Giống như cuộc đời mỗi con người đều nhớ về tình yêu đầu tiên thì trong tâm hồn của mỗi du khách đến với mảnh đất văn chương luôn in đậm hình bóng về một con sông. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường say đắm với nàng “tài nữ” sông Hương, Tế Hanh một đời khắc cốt ghi tâm với con sông quê hương “xanh biếc”, thì Nguyễn Tuân – kẻ phiêu lãng với “chủ nghĩa xê dịch” lại phải lòng và rung động trước con sông Đà nơi vùng Tây Bắc trong thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Qua tác phẩm, người đọc còn thấy được hình tượng ông đò hiên ngang, kiêu hãnh và rất đỗi tài hoa.
Khi nhắc đến tên tuổi của Nguyễn Tuân, từ trong tiềm thức của mõi người yêu văn chương đều biết đến ông là một nhà văn tài hoa uyên bác hơn đời hơn người. Ông khẳng định vị trí của mình bằng một phong cách rất đặc biệt được gói gọn trong một chữ “Ngông”. Nếu trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tìm thấy vẻ đẹp ở những nho sĩ cuối mùa mà một thời còn vang bóng thì sau cách mạng, nhà văn lại tìm thấy chủ nghĩa anh hùng sống trong đời sống quần chúng nhân dân. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên không chỉ là thiên nhiên vô tri vô giác mà là một sinh thể có hồn và tràn đầy sức sống.
Diễn tả cái vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông Đà, nhà văn không chỉ dùng thị giác mà ông còn kết hợp vận dụng …Hai bên bờ sông Đà là những bờ đá cao “dựng vách thành” tạo nên một cảnh tượng hùng vĩ, dữ dội “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có chỗ vách Đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Nguyễn Tuân đã sử dụng liên tiếp nghệ thuật so sánh, liên tưởng để nhấn mạnh về độ cao, chiều sâu và sự hùng vĩ của hai bên bờ vách đá. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân lại tiếp tục sử dụng những liên tưởng vừa gần gũi dễ hiểu vừa mới mẻ sáng tạo để ca ngợi về cảnh đá bờ sông. Hai bờ sông Đà hẹp tới mức “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Khung cảnh sông Đà vừa hùng vĩ vừa hoang sơ gắn liền với khung cảnh hùng vĩ của núi rừng bạt ngàn. Hơn nữa, khi miêu tả cảnh ngồi trong khoang đò này “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Có cảm giác như đang đứng ở dưới một dãy nhà cao tầng khi ngước nhìn lên một khung cửa sổ vừa tắt phụt đèn điện. Với những liên tưởng này đã đủ để cho độc giả có thể hình dung được một khung cảnh đầy lạnh lẽo, tăm tối nơi vùng sông nước. Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đến tận cùng của những cảm giác, của trí tưởng tượng để hình dung về khung cảnh hùng vĩ nhưng không kém phần hung bạo của con sông Đà, từ đó lưu dấu ấn trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về cảnh sông nước cùng thiên nhiên Tây Bắc với những so sánh và liên tưởng trùng điệp nối tiếp.
Sóng nước quãng mặt ghềnh Hát Loóng đã để lại trong Nguyễn Tuân một ấn tượng mạnh. Sóng nước ở đây “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Nhà văn đã sử dụng kiểu câu dài với nhiều vế câu trùng điệp tạo nên nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp nhấn mạnh sự nguy hiểm hung bạo của sóng nước sông Đà. Động từ “xô” được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên âm hưởng đầy mạnh mẽ để khi đọc lên người ta vừa hình dung được hình ảnh những con sóng đang cuộn trào dâng, vừa nghe được âm thanh dữ dội của sóng nước. Sóng nước sông Đà đã thực sự tạo nên những hình ảnh và âm hưởng hùng vĩ qua đó thể hiện được sự hung bạo của sông Đà. Để người đọc có thể hình dung được cụ thể hơn về mức độ nguy hiểm của sóng nước. Nguyễn Tuân còn nhấn mạnh, sóng nước nơi đây “lúc nào cũng đoì nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Nó luôn nhăm nhe, lợi dụng mọi sơ hở. Qủa thật, sông Đà đã trở thành mối đe dọa nguy hiểm đầy hung bạo với con người.
Hơn thế nữa, Nguyễn Tuân miêu tả những hút nước sông Đà bằng những hình ảnh cụ thể “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Không chỉ vậy, những hút nước ấy còn có những âm thanh đầy ghê sợ “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” rồi lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào “. Và trên mặt những hút nước xoáy tít đáy “lừ lừ như những cánh quạ đàn”. Tất cả những hình ảnh, những âm thanh này cũng đủ để người ta mường tượng về mức độ hung hiểm và dữ dội của hút nước nơi đây. Chẳng thế mà không có con thuyền nào dám men tới gần. Đã có những bè gỗ vô ý đi qua đây đã bị hút nước lôi tuột xuống. Đã có những con thuyền bị hút xuống mà “trồng ngay cây chuối ngược”, “mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đây chính là những bằng chứng cụ thể, chân thực để nhấn mạnh sự nguy hiểm, hung dữ của hút nước sông Đà. Để giúp người đọc có thể cảm nhận một cách sinh động hơn , Nguyễn Tuân còn liên tưởng đến một nhà quay phim ngồi trên một con thuyền thúng dưới đáy hút nước để ghi lại những thước phim và truyền cảm giác mới lạ cho người xem. Khi đó cr người cả thuyền cả máy quay phim xoáy tít. Nước sông xanh như vỡ tan ụp vào máy quay và truyền cho người xem cảm giác manh tời mức phải giữ chặt lấy ghế. Nguyễn Tuân đã sử dụng sáng tạo kiến thức điện ảnh để nhấn mạnh sự hung bạo, tàn ác của hút nước đồng thời giúp người đọc như được tham gia một trải nghiệm sinh động , tận mắt được chứng kiến và khám phá về những “giếng hút” sông Đà với những liên tưởng độc đáo, bất ngờ, mới mẻ.
Nguyễn Tuân còn rất ấn tượng về những thác nước sông Đà. Nhà văn có thể nhớ tên, liệt kê từng con thác. Âm thanh tiếng thác được Nguyễn Tuân cảm nhận từ xa đến gần như một sự khám phá, phát hiện đầy kịch tính, bất ngờ. Từ đằng xa, nhà văn đã nghe thấy tiếng thác “nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Từng âm thanh của thác nước hiện lên với những cung bậc bản tính khác nhau. Có khi “oán trách” lúc lại “van xin” có lúc lại “khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tài hoa trong nghệ thuật bút kí của Nguyễn Tuân là sự thành công trong việc sử dụng các phép so sánh, nhân hóa đầy táo bạo cùng hệ thống từ ngữ đa hình ảnh. Sông Đà không chỉ còn là một con sông nhiều thác ghềnh và nguy hiểm, nó trở nên sinh động và đa trạng thái như một con người thực. Hơn nữa các từ ngữ chỉ trạng thái trên còn biến đổi linh hoạt và đa dạng chứng tỏ tâm địa ngày càng gian ác và thâm độc của con sông Đà. Không chỉ vậy, sông Đà còn biết uy hiếp, cảnh cáo đanh thét với âm thanh “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nổ lửa”. Hàng loạt động từ mạnh “nổ lửa”, “gầm thét”, “cháy bừng bừng” như một đòn bảy giác quan mạnh. Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi sử dụng thủ pháp đối lập giữa hai yếu tố không thể dung hòa: lấy rừng tả sông, lấy lửa tả nước để họa lên sự điện cuồng, dữ tợn của sông Đà. Nó có sức mạnh vô biên, sự khát khao chiếm lĩnh độc tôn khiến nó trở thành khiến nó trở thành con quái thú trong cơn thịnh nộ đòi ăn tươi nuốt sống kẻ thù.
Cả không gian mở ra một “chân trời đá”. Ở nơi thác nước này đã “mai phục” từ ngàn năm nay. Oai vệ và hùng hục khí thế nghênh chiến, chỉ đợi con thuyền nào là xuất hiện là “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Những hòn đá ở đây mang đủ hình dáng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó”. Chúng kì lạ, quái dị đến đáng sợ. Những tảng đá sắc nhọn với cái “hắt hăm”, “xấc xược” khiêu khích và thách thức, cả sông Đà như được mai phục bởi vô vàn những kẻ canh gác bệ vệ to lớn. Điều này chứng tỏ sông Đà không chỉ có sức mạnh mà còn còn có cả một tâm địa độc ác, một sự hiếu thắng đến điên loạn, sẵn sàng tiêu diệt bất kì kẻ thù nào lọt trong tầm mắt nó. Mặt sông “rung tít lên” trắng xóa cả một chân trời đá. Có một khung cảnh thác nước sông Đà đều thể hiện sự dữ dội đầy hung hiểm. Nguyễn Tuân không chỉ ghi lại một cách đầy ấn tượng về khung cảnh thác nước mà còn thổi hồn vào thiên nhiên cảnh vật mang hành động, tính cách như con người hung bạo dữ tợn qua nghệ thuật nhân hóa đặc sắc. Có như vậy ta mới có thể cảm nhận trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất về vẻ đẹp dữ dội của sông Đà.
Con sông Đà nham hiểm, xảo quyệt bày bố ba thách trận để thử thách đe dọa tính mạng người lá đò. Ở thạch trận thứ nhất, nó giao nhiệm vụ cho từng hòn chia đám tảng đám hòn “làm ba hàng chặn ngang trên sông” nhằm đẩy con thuyện vào tình thế đơn độc để rồi phối hợp với sóng nước mà đập tan con thuyền ngay dưới chân thác đá. Thậm chí nó còn tạo ra những đòn hiểm khiến ông lái đò bị thương. Sang thạch trận thứ hai, sông Đà lại “thay đổi chiến thuật” bố trí nhiều “cửa tử” hòng “đánh lừa” con thuyền. Còn ở thạch trận thứ ba, sông Đà bố trí hai “luồng chết” chỉ có một “luồng sống” ở chính giữa bị chặn lại bởi “bọn đá hậu vệ”. Có thể nói mỗi thách trận là một bằng chứng cụ thể để khẳng định sự dữ dội, hung hiểm của sông Đà. Nguyễn Tuân dường như đã đến “sơn cùng thủy tận” để khám phá, khắc họa của vè đẹp của con sông nơi núi rừng Tây Bắc.
Chưa dừng lại ở đó, nhìn từ trên cao xuống, sông Đà “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc độ dài vô tận của dòng sông, trùng điệp giữa bát ngát màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” khiến cho người đọc không khỏi xuýt xoa trước vẻ đẹp điểm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của đất trời. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn nay được Nguyễn Tuân gắn với “tóc” để trở thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ đã nói lên hết cả chất thơ, chất trẻ trung đẹp đẽ và thơ mộng của dòng sông, cảnh vật vì thế mà hiện lên vừa thực vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng thêm vè huyền bí và trữ tình cho con sông. Vẻ đẹp của sông Đà còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực ở hai bên bờ làn cho người đọc liên tưởng mái tóc ấy như được trang điểm bởi mây trời, như được điểm xuyết với hoa gạo hoa ban và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.
Tác giả miêu tả cảnh bờ sông thật ấn tượng “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, tĩnh lặng. Cái sự tĩnh lặng của con sông đã có từ “đời Lí, đời Trần đời Lê” càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của sông Đà. Trong cái sự “lặng tờ”không một bóng người, bờ sông hiện lên “hoang dại như một bờ tiền sử” và “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn đẹp, giàu chất thơ để miêu tả vẻ đẹp sông Đà. Trong góc nhìn này, con sông vừa mang nét cổ kính vừa huyền ảo đầy mê hoặc và quyến rũ. Phép so sánh độc đáo dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm bật lên cái hồn nhiên trong sáng, cái nguyên thủy hoang sơ của chốn non nước thi vị nơi đây. Có cảm giác như con người đang thoát li khỏi cuộc sống thực tại để trở về cõi mơ, cõi mộng, trở về miền hư ảo xa xôi nào đó.
Bờ sông ở đây còn nói lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tàn hết, nhà văn đã phát hiện được “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” rồi “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp” cùng “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Chỉ với vài nét mô tả, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đến một còi thiên nhiên tràn đầy sức sông trong trẻo, an lành và hồn hậu. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất họa, thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Nguyễn Tuân đã miêu tả thật gợi cảm và trữ tình sông Đà như một lời thơ du dương đầy quyến rũ, cái dữ dội, cuộn xoáy dường như đã bị vẻ đẹp êm đềm, lặng lờ của ven sông xóa lấp và che mờ đi mắt rang. Rồi “chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê”. Đó là giấc chiêm bao la là một khát khao nối liền bờ tiền sử đến hiện tại, giữa không gian tĩnh lặng, một nỗi nhớ tiếng còi quen thuộc với quê hương, đất nước rộng lòng yêu thương.
Bài văn khép lại với hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” với sự quẫy vọt của đàn cá dầm xanh. Câu văn đậm chất thơ mang một mảng màu êm ái thả lên nền văn xuôi như mật ngọt. Chất thơ ấy càng tô đậm vẻ đẹp duyên dáng, tình tứ thơ mộng của sông Đà như lời mời gọi say mê với con người nơi đây về một ngày trở lại. Với ba hình ảnh cùng nét vẽ độc đáo, tài hoa Nguyễn Tuân đã khắc họa một bức tranh sông núi Tây Bắc đầy trong trẻo, hoang sơ mà nhấn lên nhiều nhung nhớ.
Thật cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã đưa đến một áng văn tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này càng chứng tỏ nhà văn là một người am hiểu tường tận về nơi này!