Đáp án đúng:
Giải chi tiết:I, GIỚI THIỆU CHUNG: (0,5 điểm)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trong 3 nhân vật thì nhân vật vợ nhặt được nói đến ít nhất, nhưng nếu không có nhân vật vợ nhặt thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nhân vật này có vai trò quan trọng trong việc làm nên giá trị nội dung tư tưởng và quyết định đến sự hình thành những hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
II, CỤ THỂ: (4,0 điểm)
1/ NHÂN VẬT VỢ NHẶT LÀ HIỆN THÂN THÊ THẢM CỦA CON NGƯỜI TRONG NẠN ĐÓI NĂM 1945 (1,0 điểm)
a/Tên gọi, lai lịch: (0,25 điểm)
- Nhân vật này không có tên gọi, nhà văn chỉ gọi là: “người đàn bà”, “thị”, “con dâu” -> Cách gọi mang tính khái quát: thời bấy giờ không chỉ có một mà rất nhiều người đàn bà rơi vào hoàn cảnh như thế.
- Không ai biết gốc tích, lai lịch của người vợ nhặt
-> Dụng ý của tác giả: người vợ nhặt không quê hương, thân phận bèo bọt lênh đênh trôi dạt trong thảm họa đói khát, không lưu giữ chút gì về sự tồn tại của bản thân.
b/ Ngoại hình: (0,25 điểm)
Ngoại hình tiều tụy được miêu tả tỉ mỉ:
- Quần áo tả tơi như tổ đỉa
- Gầy sọp
- Mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt
- Ngực gầy lép
-> Người phụ nữ này đã phải chịu đói nhiều ngày, là đại diện cho những con người đói khát “tới đâu là nhà, ngã đâu là giường”, không có dấu hiệu gì của nữ tính.
c/ Lời nói, hành động: (0,5 điểm)
* Lời nói: Đanh đá và chơ chẽn, là hậu quả của cuộc sống nghèo khó, ít học, là nạn nhân trực tiếp của cái đói. Cái đói khiến người phụ nữ mất hết cái đẹp của sự nữ tính và sự sĩ diện của bản thân “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ” “Điêu! người thế mà điêu!” “Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”
* Hành động:
- Gạ ăn: Vì nhu cầu sinh tồn mà sẵn sàng gạ ăn giữa đường giữa chợ, giữa đám đông xa lạ, quên ý tứ, không còn sĩ diện, bản năng sinh tồn đã lấn lướt tất cả.
- Sẵn sàng theo người đàn ông mới chỉ gặp hai lần về làm vợ, biến lời rủ rê đùa nhiều hơn thật thành lời cầu hôn chính thức
-> Bị cái đói xô đẩy, bị biến thành thân phận trôi dạt, tự hạ thấp giá trị của mình đến mức rẻ rúng ngang với những vật không có giá trị mà người ta vứt ngoài đường
=> Thông qua nhân vật người vợ nhặt Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống, tình cảnh thê thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đặc biệt cho người đọc thấy được số phận rẻ rúng của người phụ nữ.
2, NGƯỜI VỢ NHẶT VẪN TIỀM TÀNG NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP: (2,0 điểm)
a/ Lòng ham sống, khát vọng sống mãnh liệt: (0,5 điểm)
- Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về” thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Sau đó thị theo Tràng về nhà mà không một chút do dự
-> Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
b/ Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều: (0,5 điểm)
- Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét.. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. -> vẻ đẹp của cô dâu về nhà chồng.
- Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
- Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
c/ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. (1,0 điểm)
- Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
- Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.
- Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm
=> Nhận xét:
+ Tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo.
+ Góp tiếng nói lên án, tố cáo tội ác tày trời của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: (0,5 điểm)
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
III. ĐÁNH GIÁ: (0,5 điểm)
Khẳng định tài năng, tấm lòng nhân đạo của tác giả