Hầu Trời là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mặt thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Có thể tìm thấy dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại trên những phương diện chính như sau :
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do. Bài thơ gồm nhiều khổ thơ, mỗi khổ không hạn định số câu (thường là bốn, có khi sáu – tám – mười – thậm chí hai mươi) tuỳ theo diễn biến cảm xúc và sức dung chứa sự việc được kể, tả, biểu hiện.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, gắn với đời sống, không ước lệ, xa cách như thơ truyền thống.
- Cách kể chuyện hóm hỉnh theo lối bình dân, hấp dẫn người đọc. Đây là một nét đặc sắc, tinh tế của bài thơ này. Nó bộc lộ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể chuyện – nhân vật chính, chủ thể trữ tình – trước những đối tượng nghe chuyện tưởng tượng (Tri – chư tiên giả định) đồng đẳng, thân tình. Trong câu chuyện hư cấu này, quan hệ giao tiếp giữa người kể (ở cõi trần) và ngưòi nghe (ở cõi tiên) xem ra vô cùng thân mật, dung dị. Dưới ngòi bút tác giả, những chư tiên không có một chút gì gọi là phi phàm. Họ cũng xúc cảm theo cách của người bình dân ta : lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tai đứng, vỗ tay, tranh nhau dặn,… Từ ngữ được dùng lấy từ đòi sống thường nhật dường như có vẻ còn thô mộc, không có sự gia công trau chuốt ; lại được đặt vào ngữ điệu nói nên càng giàu sức sống và rất ý vị : “Văn dài hơi tốt ran cung mây !”, “Văn đã giàu thay, lại lắm lối – Trời nghe Trời cũng bật buồn cười”,…
Cách kể ấy, nụ cười hóm hỉnh ẩn trong giọng kể ấy, làm nên cái thần, nội dung trữ tình của bài thơ ; nó thích họp với câu chuyện “hầu Trời” mà Tản Đá hư cấu.
Nhìn chung, thơ Tản Đà chưa hẳn là mới (ở thể loại, ở ngôn từ, ở hệ thống hình ảnh nghệ thuật,…) nhưng đã có những dấu hiệu khá rõ của sự đổi mới theo hướng hiện đại. Có thể nói, ông là nhà thơ đã bắc một nhịp cầu nối hai thời đại thi ca Việt Nam.