Mở bài:
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội, ông sống và viết xuyên suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc nên những sáng tác của ông tập trung chủ yếu vào đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông mang đậm chất hiện thực cuộc sống.
- Bài thơ “Đồng chí”được sáng tác vào đầu xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã viết rất chân thực, cảm động về tình đồng đội, đồng chí cao quý của các anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp và trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về đề tài này.
- Đoạn thơ “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…Đầu súng trăng treo” thể hiện rất rõ nội dung đó.
Thân bài:
- Trải qua cuộc sống gian khổ, biết bao điều gắn bó chiến sĩ lại với nhau:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi"
- Tôi với anh chung cảnh ngộ, anh với tôi chung một lí tưởng, chung đội ngũ và tôi với anh giờ đây lại chung cả những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cái căn bệnh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ. Sợ mà không sao tránh khỏi. Nhà thơ nhắc đến chuyện này như nhắc đến một kỉ niệm khó quên trong tình bạn.
- Bài thơ đem lại sự rung động sâu sắc khi dựng nên được hình ảnh trung thực và giản dị của anh bộ đội Cụ Hồ:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
- Áo rách, quần vá, chân đi đất: đó là những thiếu thốn, khó khăn chung của những ngày đầu kháng chiến. Miệng cười buốt giá: đó là cái buốt giá của đất trời, của núi rừng. Hai từ “buốt giá” khiến người đọc cảm nhận thật rõ cái khắc nghiệt của rừng thiêng nước độc!
- Những người lính đã đồng cam cộng khổ, khi là sự sánh đôi “anh với tôi”, khi là sự đối xứng ” áo anh” – “quần tôi”. Nhưng cảm động nhất là họ vẫn trao nhau những nụ cười, vẫn nắm chặt tay nhau để xoa dịu đi những khó khăn, thiếu thốn ấy. Một nụ cười bằng cả mười thang thuốc bổ và ở đây còn có sức mạnh sưởi ấm. Cả cái siết tay nắm chặt cũng đầy sự cảm thông và chia sẻ, như muốn truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tiếng “thương” nghe sao thật ấm áp, ân tình! "Anh" với "tôi" luôn luôn sóng đôi với nhau, có khi cùng nằm trong một câu thơ, có khi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
- Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình thương yêu sâu sắc của đồng đội:
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
- Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết tình đồng chí thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy. Cái siết tay thật chặt và ánh mắt cảm thông, tin cậy đủ nói lên tất cả.
- Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ mà khỏe khoắn, hào hùng:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh hèn nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
- Chất hiện thực và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh vẫn là cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá nhưng dường như nó bị đẩy lùi ra tít phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh của đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng người chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã xế ngang tầm súng và tác giả hạ câu thơ độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Trong sự tương phản giữa hai hình ảnh súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến dể bảo vệ hòa bình. Trăng tượng trưng cho cái đẹp và cuộc sống yên vui. Súng và trăng là biểu tượng của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở, đồng thời nó cũng thể hiện lòng tin tưởng và tâm hồn yêu đời của chiến sĩ ta.
Kết bài:
- Bài thơ Đồng chí là bức chân dung sống động về anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến. Chính Hữu đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ với tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Bài thơ lưu lại mãi mãi trong kí ức bao thế hệ cầm súng chống xâm lăng từ đó đến nay. Bởi thế, nhắc đến tác giả là người đọc nhớ ngay đến bài thơ tuyệt vời này.