1 Muốn làm tốt bài văn thuyết minh, người viết phải nghiên cứu, tìm hiểu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bày các biểu hiện không tiêu biểu, không quan trọng.
2 Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như: nêu định nghĩa liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh đối chiếu, phân tích, phân loại…
A. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
I. Quan sát, học tập, tích luỹ tri thức để làm bài văn thuyết minh
Muốn viết được một văn bản thuyết minh đạt hiệu quả cao, ngưòi viết cần phải có những hiểu biết về đối tượng thuyết minh. Hiểu biết càng sâu sắc, thấu đáo thì nội dung văn bản thuyết minh càng hàm súc, mạch lạc và rõ ràng. Bởi vậy, việc tìm hiểu về đối tượng trước khi thuyết minh là hết sức cần thiết.
Đọc lại các văn bản thuyết minh: Cây dừa Bình Định, Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế, Khởi nghĩa Nông Văn Vân, Con giun đất, ta thấy các loại văn bản đó đã sử dụng các kiến thức về địa lí, sinh học, sử học.
Hiểu biết của con người không phải tự nhiên mà có được. Muốn có hiểu biết về một đối tượng nào đó, cá nhân phải học hỏi, phải tích luỹ kinh nghiệm sống, phải đọc sách báo, phải ghi chép… Đồng thời, phải biết quan sát, nghĩa là phải biết nhìn nhận, biết đánh giá, nhận xét về đốì tượng. Chỉ khi nào có hiểu biết về đối tượng thật kĩ càng, mối có thể viết được văn bản thuyết minh.
II. Phương pháp thuyết minh
Để nêu bật đặc điểm bản chất, tiêu biểu của sự vật, hiện tượng ngưòi ta thường sử dụng các phương pháp thuyết minh sau:
1. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích
Đây là phương pháp được viết theo kiểu cấu trúc: s là p.
Ví dụ:
– Cụm danh từ là loại tổ hợp từ do danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. (Ngữ văn 6, tập một)
– Di truyền là hiện tượng truyền đạt các tình trạng của bố mẹ, tổ tiên cho các thế hệ con cháu. Còn biến dị là hiện tượng con cháu sinh ra khác với bố mẹ và khác nhau về nhiều chi tiết.
(Sinh học 9, SGK thí điểm)
Dùng phương pháp định nghĩa, giải thích như cách viết trong ví dụ trên thường xác định được đốì tượng một cách cụ thê loại nào, kiểu gì, đặc điểm cơ bản của sự việc, hiện tượng ra sao, tránh việc giải thích quá rộng hoặc quá hẹp về đối tượng.
2. Phương pháp liệt kê
Đây là phương pháp kể ra, đưa ra một loạt những tính chất, những đặc điểm nào đó của đốì tượng nhằm khẳng định hay nhấn mạnh cho một điều gì đó, một đặc tính nào đó cần thuyết minh, làm rõ.
Ví dụ: Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người: thân cây làm máng, lá làm tranh, cong lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi; nước dừa đề uống, đê kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm..,(Cây dừa Bình Định)
3. Phương pháp nêu ví du
Đây là phương pháp dẫn ra, đưa ra những dẫn chứng lấy từ sách, báo chí, từ đời sống thực tiễn để làm sáng rõ cho điều mình trình bày. Dẫn chứng càng mang tính phổ biến bao nhiêu càng có giá trị cao bấy nhiêu.
Ví dụ: Ngày nay, đi các nước phát triển, đâu đâu củng nôi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người ta cấm hút thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (ở Bỉ, từ năm 1987, vi pham lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm phạt 500 đô la)
4. Phương pháp dùng số liệu (con số)
Đây là phương pháp đưa vào văn bản những con số mang tính chất định lượng chính xác để giải thích, chứng minh hay giới thiệu về một sự vật, hiện tượng nào đó.
Ví dụ: Với tỉ lệ hằng năm tăng 1,73% như mười lăm năm trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn 7 tỉ người. (Bài toán dân số)
5. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp đem so sánh, đổi chiếu một sự vật, hiện tượng nào đó trừu tượng, chưa thật sự gần gũi, còn mới mẻ với mọi người với nhiều sự vật, hiện tượng thông thường, dễ gặp, dễ thấy để giúp người đọc nhận thức, hiểu về sự vật, hiện tượng đó một cách cụ thể, dễ dàng hơn.
Ví dụ: Biển Thái Bình Dương chiếm một diện tích lớn gần bằng ba đại dương khác cộng lại và lớn gấp 14 lần diện tích biển Bắc Băng Dương là đại dương bé nhất.
6. Phương pháp phân lọai, phân tích
Đây là phương pháp chia ra từng loại, từng bộ phận, từng mặt khi mà sự vật quá đa dạng hay có nhiều bộ phận cấu tạo, có nhiều mặt để thuyết minh.
Ví dụ: Văn bản Huế trong SGK, trang 115 – 116 trình bày các đặc điểm của thành phố Huế theo những mặt:
– Huế là một trong những trung tâm văn hoá, nghệ thuật lớn của Việt Nam.
– Huế là sự kết hợp hài hoà của núi, sông và biển.
– Huế đẹp vối cảnh sắc sông núi.
– Huế có những công trình kiến trúc nổi tiếng.