Hình ảnh bài thơ là chất liệu lấy từ cuộc sống dân dã thường ngày ở nông thôn: Cây bưởi, vườn cà, hoa tầm xuân, chim, cá… nên tạo cảm giác rất thân quen. Rất quen nhưng cũng rất lạ lẫm mới mẻ vì nụ tầm xuân hống, trắng ngày thường bỗng biến thành xanh biếc. Cho nên nó nói giản đơn mà lại rất ẩn dụ, chỉ nói “Nụ tầm xuân” thôi cũng đã ẩn dụ cho tình yêu, cho vẻ đẹp người con gái rồi, huống chi “nụ tầm xuân xanh biếc”, càng gợi vẻ non tơ tươi trẻ đến mức quá hồn nhiên, vậy mà “em đã có chồng” rồi. Cho nên cảm giác “tiếc” càng xót buốt tận tâm can. Cái màu xanh ấy mới xao xuyến gợi thương gợi nhớ.
Biện pháp tu từ so sánh, kết hợp với lối điệp liên hoàn và song hành ở cuối bài thơp góp phần khẳng định cái chất ngọc của ca dao, nó gợi lên một cách đầy đủ và sống động cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam xưa: Có chồng theo sự ép buộc của cha mẹ hoặc theo sự cưỡng đoạt của nhà giàu, người phụ nữ xưa phải sống không tự do, không hạnh phúc, bị trói buộc như nô lệ. Cách so sánh quen thuộc nhưng rất hay. Bởi “chim lồng, cá móc câu” thì còn mong gì đươc tự do, còn mong gì được sống theo ý mình.Tâm trạng đau khổ, tiếc hận cuộc đời bế tắc không lối thoát, không ánh sáng tương lai thể hiện rất rõ trong lời than của cô gái làm nao lòng người nghe, làm nhức nhối đến tận tim gan chàng trai.
Chỉ có 10 câu ca dao mà người xưa đã gợi lên cả một vấn đề lớn, tình yêu đôi lứa và thân phận con người. Sự đồng cảm của tác giả đã tạo nên một giá trị nhân đạo cho ca dao, lời tiếc nuối của chàng trai và lời than trách phận của cô gái tạo nên giá trị nhân bản cho ca dao. Các biện pháp nghệ thuật tinh tế nâng cánh cho bài ca dao mang những giá trị hiện thực, nhân bản, nhân đạo quý giá ấy vượt bức tường thời gian để đến với chúng ta ngày nay.