Dạng oxit axit + dd kiềm mà có đồ thị thì đó là dạng $CO_2$ tác dụng với dung dịch $Ca(OH)_2$ hoặc hỗn hợp $NaOH, Ca(OH)_2$
(có thể thay $CO_2=SO_2$, $NaOH=KOH$, $Ca(OH)_2=Ba(OH)_2$ tương tự)
* Dạng đồ thị $CO_2+Ca(OH)_2$, biểu diễn sự phụ thuộc $n_{\downarrow}$ theo $n_{CO_2}$
Hai giai đoạn của đồ thị:
1) $CO_2+Ca(OH)_2\to CaCO_3+H_2O$: lượng kết tủa tăng dần, đồ thị đi lên. Điểm cực đại là khi toàn bộ $Ca(OH)_2$ trở thành $CaCO_3$
2) $CO_2+CaCO_3+H_2O \to Ca(HCO_3)_2$: sau khi tạo tủa và hết $Ca(OH)_2$, khí $CO_2$ tiếp tục hoà tan $CaCO_3$ mới tạo ra nên lượng kết tủa giảm dần, đồ thị đi xuống đến $0$ nếu dư $CO_2$.
Lấy ví dụ đồ thị TH1: sục từ từ đến dư $CO_2$ vào dd chứa $1$ mol $Ca(OH)_2$
Do đó nếu sau phản ứng thu được $0,25$ mol $CaCO_3$ thì phải xét 2 trường hợp do đường $y=0,5$ cắt đồ thị tại hai điểm phân biệt.
* Dạng đồ thị $CO_2+Ca(OH)_2/NaOH$, biểu diễn sự phụ thuộc của $n_{\downarrow}$ theo $n_{CO_2}$:
Các phản ứng xảy ra:
$CO_2+Ca(OH)_2\to CaCO_3+H_2O$
$CO_2+2NaOH\to Na_2CO_3+H_2O$
$CO_2+Na_2CO_3+H_2O\to 2NaHCO_3$
$CO_2+CaCO_3+H_2O\to Ca(HCO_3)_2$
1) Đoạn đi lên (tác dụng $Ca(OH)_2$): sục từ từ $CO_2$ vào thì kết tủa tăng dần đến cực đại, điểm cực đại là khi toàn bộ $Ca(OH)_2\to CaCO_3$
2) Đoạn ngang (tác dụng $NaOH$): tác dụng với $NaOH$ nên số mol $CaCO_3$ vẫn cực đại, không biến đổi. Nếu đi đến hết đoạn ngang thì toàn bộ $NaOH\to NaHCO_3$. Do đó nếu sản phẩm muối thu được có $Ca(HCO_3)_2$ thì gộp lại giai đoạn 2 là $CO_2+NaOH \to NaHCO_3$.
3) Đoạn đi xuống (tác dụng $CaCO_3$): kiềm hết, $CO_2$ tiếp tục hoà tan $CaCO_3$ đến khi kết tủa tan hết.
Lấy ví dụ: sục từ từ $CO_2$ vào dd chứa $1$ mol $Ca(OH)_2$ và $2$ mol $NaOH$: TH2 như hình