Ko copy '-'
Là thi sĩ ai chẳng muốn viết về cái đẹp, cái hữu tình, cái thơ mộng. Nhưng hiện thực cuộc sống được phơi bày ngay trước mắt như mũi dao oan nghiệt khiến trái tim thi sĩ phải cất lên tiếng đau thương.Trong ngàn vạn tiếng nấc nghẹn ngào về thân phận người phụ nữ, Truyện Kiều bật lên như tiếng thét hoảng hốt, vô vọng giữa đêm trường phong kiến đầy những tủi nhục, đắng cay. Và đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã thể hiện rõ điều đó:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
Từ một cô gái "Êm đềm trướng rủ màn che", Kiều bị đẩy vào dòng đời oan nghiệt, bị làm nhục, bị Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa vào lầu xanh. "Lầu Ngưng Bích" là nơi Tú Bà cho Kiều ở nhưng thực chất là giam lỏng nàng (khóa xuân).Ngồi trên lầu cao trong nỗi sầu vô hạn,Kiều trông ra xa là "non xa", trăng gần". Thực chất theo khoảng cách địa lý thì trăng phải xa hơn non. Nhưng một mình bơ vơ giữa nơi đất khách quê người, Kiều chỉ có vầng trăng là thân thuộc. Và cũng chính vầng trăng ấy là từng là nhân chứng cho lời thề nguyền năm xưa với mối tình đầu say đắm Kim Trọng. Kiều nhìn xa ra xung quanh, nhưng cũng chỉ là "bốn bề" hoang vắng, rợn ngợp với những bãi cát vàng nhấp nhô lượn sóng, với bụi hồng dàn trải mênh mông kéo nhau mất hút vào vô tận. Thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích thật đẹp nhưng nhuốm màu tâm trạng. Đây chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du, tả cảnh mà như đang tả tình nhân vật. Đặc biệt thành ngữ "mây sớm đèn khuya" chỉ vòng tuần hoàn khép kín, liên miên không dứt của thời gian. Trong vòng tuần hoàn ấy ta thấy một Kiều đang ngồi bơ vơ, "bẽ bàng" trước cảnh đời vô vị mà ê chề, đắng cay.Lòng Kiều đang dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót, buồn tủi . Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.