Các bạn hãy thử tưởng tượng xem, nếu cho đến bây giờ, những văn bản phản ứng của chúng ta với Trung Quốc, với cả thế giới về việc chủ quyền quốc gia đang bị xâm phạm trên biển, trên không vẫn bằng chữ Hán hay chữ Nôm (thứ chữ “trái quy luật” vì muốn đọc được phải thông thuộc chữ Hán hay nói cách khác: phải dùng ngoại ngữ để học tiếng mẹ đẻ) có phải là “đại thảm họa” không ?!
Gần hai ngàn năm chúng ta phải đi mượn chữ. Suốt hai ngàn năm ông cha ta đã nhiều lần tìm cách thoát ách đô hộ phương Bắc nhưng mới thoát khỏi sự chiếm đóng chứ chưa thật sự thoát về văn hóa vì vẫn phải lệ thuộc vào văn tự của họ (mà từ văn tự sẽ lan tỏa qua tư tưởng, từ đó chi phối nhân sinh quan của người Việt). Chỉ đến khi cuộc cách mạng chữ viết vào đầu thế kỷ 20 thắng lợi, mới giúp ta có cơ sở thoát Trung một cách cơ bản về văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử 4.000 năm, nước ta có một thứ chữ ghi lại đúng âm chuẩn của người Việt, đọc lên từ người có học đến mù chữ đều hiểu được nghĩa của nó; một thứ chữ cấu tạo theo hệ La-tinh, dễ học một cách lạ lùng!
Với tính phổ cập vô cùng cao, chữ Quốc ngữ tới nay đã được dùng thống nhất trên mọi miền đất nước và diễn tả một cách tinh vi nhất đủ mọi lĩnh vực từ luật pháp, văn chương, khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên. Cùng với chữ viết thống nhất, ta lại có tiếng nói thống nhất từ đầu đến cuối đất nước. Chữ Quốc ngữ là biểu hiện cho sự đoàn kết toàn dân tộc trên toàn thế giới, người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đều sử dụng ngôn ngữ này, tiếng nói này, trở thành một trong những vũ khí sắc bén nhất trong công cuộc giữ nước và xây dựng đất nước. Với ý nghĩa đó, chữ Quốc ngữ đã trở thành sinh mệnh của nền văn hóa Việt Nam.