A, MB
- giới thiệu ý kiến: Có ý kiến cho rằng "Văn nghệ giúp cho con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách của tâm hồn mình". Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Trong cuộc sống của con người, văn nghệ chính là thành phần không thể thiếu được vì nó bồi đắp đời sống tinh cảm, tinh thần cho con người và hướng con người tới những tình cảm tốt đẹp để hoàn thiện nhân cách.
- giới thiệu 2 tác phẩm: Hai trong số đó là bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh giúp người đọc bồi đắp tình yêu quê hương, truyện ngắn Chiếc lược ngà bồi đắp cho ta tình cảm cha con sâu nặng.
B, TB
1, Phân tích bài thơ "Quê hương"
- Nhà thơ Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương. Mộ số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Bài thơ tháng bảy (1961). Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ được sáng tác năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945). Bài thơ Quê hương đã thể hiện được bức tranh làng chài tươi sáng và nổi bật là hình ảnh của người dân làng chài. Từ đây, ta thấy được tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ.
- Đầu tiên, chúng ta có thể thấy được tình yêu của tác giả dành cho cảnh vật của quê hương mình. Chỉ với hai câu thơ đầu "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông", người đọc đã hiểu được nghề nghiệp và vị trí của ngôi làng quê hương của tác giả. Giọng thơ trầm ấm, nhẹ nhàng như một lời tâm sự kể chuyện đã cho chúng ta thấy được tình cảm của tác giả đối với quê hương mình. Tình yêu của tác giả dành cho cảnh vật quê hương còn được thể hiện ở những dòng thơ cuối "Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi/Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,/Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!". Đó chính là nỗi nhớ luôn thường trực của một người con xa quê, luôn nhớ đến quê hương của mình với những hình ảnh biểu tượng: nước xanh, cá bạc, cánh buồm trắng. Chỉ cần nhìn thấy cánh buồm xa xa, nỗi nhớ ấy trong tác giả lại trực trào hương vị mặn nồng của quê hương. Trên tất cả, tình yêu của tác giả dành cho con người còn được thể hiện rõ nét hơn ở khung cảnh người dân đi đánh cá và người dân trở về. Khổ thơ thứ hai là cảnh người dân làng chài ra khơi đánh cá, từ đó tác giả Tế Hanh gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình. Câu thơ bắt đầu với "Khi trời trong..hồng" là lúc bình minh đang lên là dân làng chài ra thuyền đánh cá. Câu thơ "Chiếc..mã/ Phăng mái chèo...giang" là một hình ảnh thơ lãng mạn. Hình ảnh thơ có biện pháp tu từ so sánh chiếc thuyền với con tuấn mã. Nhờ có hình ảnh này mà đoạn thơ gợi được vẻ đẹp khỏe khoắn, hăng hái rắn rỏi của con thuyền giống như tuấn mã cũng như vẻ đẹp hình thể của những người dân làng chài. Không những vậy, con thuyền còn được nhân hóa :"Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang" được thể hiện qua từ "phăng", "vượt" diễn tả được tư thế, hào khí phăng phăng, tràn ngập sức sống của con thuyền cũng như người dân làng chài đang hăm hở về 1 chuyến đi đánh cá thắng lợi và thành công. Không những vậy, hình ảnh cánh buồm trắng chính là linh hồn của bài thơ. "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng" đã sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ. So sánh, ẩn dụ cánh buồm với mảnh hồn làng là để hình tượng hóa mảnh hồn làng cũng như linh thiêng hóa cánh buồm. Cánh buồm ra khơi mang theo những ước mơ khát vọng của những người dân làng chài ra khơi. Mảnh hồn làng chính là những tâm tư, ước mơ, khát vọng của người dân làng chài. Biện pháp này làm cho hình ảnh cánh buồm trở nên sinh động và thiêng liêng. Cùng với đó, "Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" là cánh buồm được nhân hóa qua từ “rướn" , "thâu góp" làm cho con thuyền trở nên sinh động chân thực như 1 con người. Khổ thơ thứ ba đã tái hiện khung cảnh người dân đánh cá trở về. Hai câu thơ đầu "Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ /Khắp dân làng tấp nập đón ghe về" chính là hình ảnh của đoàn thuyền trở về sau ngày dài đánh cá trên biển. Ta có thấy được không khí vui tươi, tấp nập, và những thanh âm của sự trù phú, ấm no của một làng chài ven biển. Những từ láy "ồn ào, tấp nập" được tác giả sử dụng tài tình để diễn tả không khí ấm no, trù phú đó của làng chài. Trong không khí chung đó, chúng ta vẫn có thể nghe thấy những tiếng thầm cảm ơn của những ngư dân về một buổi đánh cá thuận lợi "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe". Họ biết ơn biển cả, họ biết ơn mẹ thiên nhiên đã cho họ một ngày đi đánh lưới thuận lợi, đem về những mẻ cá nặng trĩu tay với những con cá tươi ngon. Trên nền cảnh, hình ảnh những người dân lao động hiện lên vô cùng đẹp và chân thực "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Đó là những người lao động với làn da rám nắng khỏe mạnh. Đặc biệt là hình ảnh "nồng thở vị xa xăm" là hình ảnh đẹp. Phải chăng đó là hơi thở của biển cả, của những vất vả thăng trầm mà họ đã trải qua cũng như tình yêu của họ để họ bám biển và lao động hàng ngày. Đặc sắc hơn, hình ảnh con thuyền cũng trở nên vô cùng sinh động như một con người nhờ biện pháp nhân hóa "im, mỏi, nằm". Nó như một thực thể sống, đang nghỉ ngơi sau 1 chuyến đi dài. Hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Nghe chất muối". Đây là chi tiết đặc sắc vì bình thường muối được cảm nhận bằng vị giác nhưng ở đây tác giả cảm nhận bằng thính giác. Điều này làm cho bài thơ càng trở nên sinh động và thú vị hơn. Tóm lại, bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh đã thể hiện được tình yêu dành cho quê hương, cho con người của làng quê ven biển. Bằng giọng thơ ấm áp, giản dị của mình, người đọc thấy được tình yêu tha thiết ông dành cho quê hương, cho con người và cảnh vật nơi đây.
2, Phân tích truyện ngắn "Chiếc lược ngà"
- Tác giả Nguyễn Quang Sáng có phong cách sáng tác bình dị, nhẹ nhàng, trữ tình, chân thực về cuộc sống và con người Nam Bộ. Truyện ông thường có cốt truyện và lựa chọn các tình huống hết sức đặc sắc và giàu kịch tính. Truyện ngắn của ông thường rất giản dị vừa hiện đại và có âm hưởng. Các tác phẩm tiêu biểu: "Người con đi xa", "Người quê hương", "Bông cẩm thạch". Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
- Người đọc thấy được tình cảm mà ông Sáu dành cho bé Thu. Do chia ly nhiều năm, ông Sáu nhớ thương con vô cùng, khao khát gặp con và bù đắp cho con. Khi gặp con, người đọc thấy được sự háo hức, nóng vội của một người cha muốn gặp con. Thuyền chưa cập bến ông đã nhảy vội lên bờ gọi con. Nhưng khi con bỏ chạy, anh tỏ rõ vẻ thất vọng ssau sắc. Trong những ngày phép ở nhà, anh dành toàn bộ thời gian cho con. Tình yêu dành cho con còn được thể hiện ở việc anh ôm và hôn con khi con gọi mình. Trong những ngày trở lại chiến trường, anh dành thời gian làm cho con cây lược ngà bằng tất cả tình yêu thương con. Khi anh hy sinh, tất cả nguyện ước của anh cũng chỉ là đưa được chiếc lược ngà đến cho con.
- Ngược lại, vì yêu cha nên bé Thu không nhận người khác cha mình là cha. Khi nhận cha, bé Thu đã thét lên tiếng ba vô cùng xúc động. Đó vẫn là tiếng ba mà Thu muốn gọi, là tiếng ba mà bao lâu nay vẫn nghẹn ở trong cổ Thu. Sau này Thu theo dấu chân ba hoạt động cách mạng, cho thấy được tình yêu thương dành cho ba. Tóm lại, truyện ngắn Chiếc lược ngà không chỉ thể hiện được tình cảm cha con sâu sắc trong hoàn cảnh chiến tranh đặc biệt mà còn thể hiện được sự khốc liệt của chiến tranh
C, KB: TỔNG KẾT
Tóm lại, văn nghệ văn chương có vai trò quan trọng trong việc bồi đắp tình cảm, hoàn thiện nhân cách con người. Hai tác phẩm văn học trên chính là tác phẩm mẫu mực về việc bồi đắp tình cảm gia đình, tình cảm quê hương cho người đọc.
BÀI LÀM
Có ý kiến cho rằng "Văn nghệ giúp cho con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách của tâm hồn mình". Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Trong cuộc sống của con người, văn nghệ chính là thành phần không thể thiếu được vì nó bồi đắp đời sống tinh cảm, tinh thần cho con người và hướng con người tới những tình cảm tốt đẹp để hoàn thiện nhân cách. Hai trong số đó là bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh giúp người đọc bồi đắp tình yêu quê hương, truyện ngắn Chiếc lược ngà bồi đắp cho ta tình cảm cha con sâu nặng.
Nhà thơ Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương. Mộ số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Bài thơ tháng bảy (1961). Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ được sáng tác năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945). Bài thơ Quê hương đã thể hiện được bức tranh làng chài tươi sáng và nổi bật là hình ảnh của người dân làng chài. Từ đây, ta thấy được tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ. Đầu tiên, chúng ta có thể thấy được tình yêu của tác giả dành cho cảnh vật của quê hương mình. Chỉ với hai câu thơ đầu "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông", người đọc đã hiểu được nghề nghiệp và vị trí của ngôi làng quê hương của tác giả. Giọng thơ trầm ấm, nhẹ nhàng như một lời tâm sự kể chuyện đã cho chúng ta thấy được tình cảm của tác giả đối với quê hương mình. Tình yêu của tác giả dành cho cảnh vật quê hương còn được thể hiện ở những dòng thơ cuối "Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi/Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,/Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!". Đó chính là nỗi nhớ luôn thường trực của một người con xa quê, luôn nhớ đến quê hương của mình với những hình ảnh biểu tượng: nước xanh, cá bạc, cánh buồm trắng. Chỉ cần nhìn thấy cánh buồm xa xa, nỗi nhớ ấy trong tác giả lại trực trào hương vị mặn nồng của quê hương. Trên tất cả, tình yêu của tác giả dành cho con người còn được thể hiện rõ nét hơn ở khung cảnh người dân đi đánh cá và người dân trở về. Khổ thơ thứ hai là cảnh người dân làng chài ra khơi đánh cá, từ đó tác giả Tế Hanh gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình. Câu thơ bắt đầu với "Khi trời trong..hồng" là lúc bình minh đang lên là dân làng chài ra thuyền đánh cá. Câu thơ "Chiếc..mã/ Phăng mái chèo...giang" là một hình ảnh thơ lãng mạn. Hình ảnh thơ có biện pháp tu từ so sánh chiếc thuyền với con tuấn mã. Nhờ có hình ảnh này mà đoạn thơ gợi được vẻ đẹp khỏe khoắn, hăng hái rắn rỏi của con thuyền giống như tuấn mã cũng như vẻ đẹp hình thể của những người dân làng chài. Không những vậy, con thuyền còn được nhân hóa :"Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang" được thể hiện qua từ "phăng", "vượt" diễn tả được tư thế, hào khí phăng phăng, tràn ngập sức sống của con thuyền cũng như người dân làng chài đang hăm hở về 1 chuyến đi đánh cá thắng lợi và thành công. Không những vậy, hình ảnh cánh buồm trắng chính là linh hồn của bài thơ. "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng" đã sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ. So sánh, ẩn dụ cánh buồm với mảnh hồn làng là để hình tượng hóa mảnh hồn làng cũng như linh thiêng hóa cánh buồm. Cánh buồm ra khơi mang theo những ước mơ khát vọng của những người dân làng chài ra khơi. Mảnh hồn làng chính là những tâm tư, ước mơ, khát vọng của người dân làng chài. Biện pháp này làm cho hình ảnh cánh buồm trở nên sinh động và thiêng liêng. Cùng với đó, "Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" là cánh buồm được nhân hóa qua từ “rướn" , "thâu góp" làm cho con thuyền trở nên sinh động chân thực như 1 con người. Khổ thơ thứ ba đã tái hiện khung cảnh người dân đánh cá trở về. Hai câu thơ đầu "Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ /Khắp dân làng tấp nập đón ghe về" chính là hình ảnh của đoàn thuyền trở về sau ngày dài đánh cá trên biển. Ta có thấy được không khí vui tươi, tấp nập, và những thanh âm của sự trù phú, ấm no của một làng chài ven biển. Những từ láy "ồn ào, tấp nập" được tác giả sử dụng tài tình để diễn tả không khí ấm no, trù phú đó của làng chài. Trong không khí chung đó, chúng ta vẫn có thể nghe thấy những tiếng thầm cảm ơn của những ngư dân về một buổi đánh cá thuận lợi "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe". Họ biết ơn biển cả, họ biết ơn mẹ thiên nhiên đã cho họ một ngày đi đánh lưới thuận lợi, đem về những mẻ cá nặng trĩu tay với những con cá tươi ngon. Trên nền cảnh, hình ảnh những người dân lao động hiện lên vô cùng đẹp và chân thực "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Đó là những người lao động với làn da rám nắng khỏe mạnh. Đặc biệt là hình ảnh "nồng thở vị xa xăm" là hình ảnh đẹp. Phải chăng đó là hơi thở của biển cả, của những vất vả thăng trầm mà họ đã trải qua cũng như tình yêu của họ để họ bám biển và lao động hàng ngày. Đặc sắc hơn, hình ảnh con thuyền cũng trở nên vô cùng sinh động như một con người nhờ biện pháp nhân hóa "im, mỏi, nằm". Nó như một thực thể sống, đang nghỉ ngơi sau 1 chuyến đi dài. Hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Nghe chất muối". Đây là chi tiết đặc sắc vì bình thường muối được cảm nhận bằng vị giác nhưng ở đây tác giả cảm nhận bằng thính giác. Điều này làm cho bài thơ càng trở nên sinh động và thú vị hơn. Tóm lại, bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh đã thể hiện được tình yêu dành cho quê hương, cho con người của làng quê ven biển. Bằng giọng thơ ấm áp, giản dị của mình, người đọc thấy được tình yêu tha thiết ông dành cho quê hương, cho con người và cảnh vật nơi đây.
Tác giả Nguyễn Quang Sáng có phong cách sáng tác bình dị, nhẹ nhàng, trữ tình, chân thực về cuộc sống và con người Nam Bộ. Truyện ông thường có cốt truyện và lựa chọn các tình huống hết sức đặc sắc và giàu kịch tính. Truyện ngắn của ông thường rất giản dị vừa hiện đại và có âm hưởng. Các tác phẩm tiêu biểu: "Người con đi xa", "Người quê hương", "Bông cẩm thạch". Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Người đọc thấy được tình cảm mà ông Sáu dành cho bé Thu. Do chia ly nhiều năm, ông Sáu nhớ thương con vô cùng, khao khát gặp con và bù đắp cho con. Khi gặp con, người đọc thấy được sự háo hức, nóng vội của một người cha muốn gặp con. Thuyền chưa cập bến ông đã nhảy vội lên bờ gọi con. Nhưng khi con bỏ chạy, anh tỏ rõ vẻ thất vọng ssau sắc. Trong những ngày phép ở nhà, anh dành toàn bộ thời gian cho con. Tình yêu dành cho con còn được thể hiện ở việc anh ôm và hôn con khi con gọi mình. Trong những ngày trở lại chiến trường, anh dành thời gian làm cho con cây lược ngà bằng tất cả tình yêu thương con. Khi anh hy sinh, tất cả nguyện ước của anh cũng chỉ là đưa được chiếc lược ngà đến cho con. Ngược lại, vì yêu cha nên bé Thu không nhận người khác cha mình là cha. Khi nhận cha, bé Thu đã thét lên tiếng ba vô cùng xúc động. Đó vẫn là tiếng ba mà Thu muốn gọi, là tiếng ba mà bao lâu nay vẫn nghẹn ở trong cổ Thu. Sau này Thu theo dấu chân ba hoạt động cách mạng, cho thấy được tình yêu thương dành cho ba. Tóm lại, truyện ngắn Chiếc lược ngà không chỉ thể hiện được tình cảm cha con sâu sắc trong hoàn cảnh chiến tranh đặc biệt mà còn thể hiện được sự khốc liệt của chiến tranh
Tóm lại, văn nghệ văn chương có vai trò quan trọng trong việc bồi đắp tình cảm, hoàn thiện nhân cách con người. Hai tác phẩm văn học trên chính là tác phẩm mẫu mực về việc bồi đắp tình cảm gia đình, tình cảm quê hương cho người đọc.