Trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh một “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính là một Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà da diết thấm sâu. Với một số lượng ít ỏi tác phẩm còn lại đến ngày nay nhưng thơ Bà Huyện có sức ám ảnh, day dứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ,… bài thơ Qua Đèo Ngang xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển, của văn học nước nhà. Sau khi cảm nhận toàn bộ tác phẩm, có thể thấy rằng hai câu kết là hai câu thơ hay nhất trong bài. Nhà thơ Tế Hanh đã có một nhận xét rất hay: “Hai câu thơ này vừa kết thúc bài thơ lại vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới”.
"Bước tới Đèo Ngạng bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta".
Bài thơ ra đời vào thời gian Bà Huyện Thanh Quan lên đường vào kinh đô Phú Xuân theo lệnh của vua Nguyễn. Phải rời thành Thăng Long quê hương lòng bà buồn khôn xiết. Huống hồ, chuyến đi ấy lại đi qua Đèo Ngang – con đèo nổi tiếng trong lịch sử, từng là nơi chia cắt đất nước ta thành Đàng Trong – Đàng Ngoài vào thế kỉ XVI.
Bài thơ mở ra bằng không gian buổi chiều sâu lắng: "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà". Không gian chiều thường gợi buồn gợi nhớ. Chiều trong ca dao cũng thường trở đi trở lại với vẻ buồn, nó đồng điệu và bởi thế dễ để người ta giãi bày tâm sự, thổ lộ tâm tư:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Qua Đèo Ngang có cảnh chiều tà hoang vắng và một nỗi buồn thầm lặng, cô đơn.
Hai câu đề mở ra cảnh chiều nơi đèo cao heo hút, hoang sơ:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa.
Dừng chân trên đèo khi bóng chiều đã xế, cảnh, tượng cây cỏ um tùm gợi một cảm giác ngao ngán, cái buồn đã bắt đầu xâm lấn vào hồn. Điệp từ “chèn” ở câu thứ hai cực tả được cái hoang dại, rậm rạp choán ngợp không gian. Tiếp đến, hai câu thực, với cái nhìn ở tầm xa, từ bên trên mà quan sát, khung cảnh chợt khiến ta bâng khuâng, nao nao buồn:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Từ “lom khom” chỉ dáng người tiều phu nhặt củi, nó gợi sự vất vả, nỗi nhọc nhằn phải luôn ở tư thế khom lưng góp nhặt. Từ “lác đác” lại chỉ sự thưa thớt, ít ỏi. Hai từ láy này được đặt lên đầu câu theo phép đảo ngữ cùng với phép đối: Lom khom / Lác đác, dưới núi / bên sông, tiều vài chú / chợ mấy nhà và nhất là hai từ vài và mấy, chúng gợi vẻ lam lũ của con người, thưa vắng, heo hút, buồn tẻ của sự sống.