Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, trên nền trời văn chương yêu nước Việt Nam nổi bật những áng văn chính luận xuất sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta”.
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả khám phá từ khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị, tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã được khám phá và thực hiện từ góc độ mong muốn thái bình thịnh trị, đất nước phải đi lên theo một tầm vóc mới mẻ, lớn lao.
Người xưa thường “tuân theo mệnh trời”, những cái gì thuận theo trời định ắt sẽ thành công, điều đó được coi như cái tất yếu mà tạo hóa đã định. Kế tục truyền thoongd và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…