Đây Bạn Nha!
Hình ảnh ông đồ thời đắc ý đã được nhà thơ Vũ Đình Liên khắc họa rõ nét qua hai khổ thơ đầu bài thơ “Ông đồ” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng khó phai. Thật vậy văn bản mở ra với khung cảnh tết đến xuân về, không khí vui tươi náo nức. Hoa đào nở tươi thắm. Mực tàu giấy đỏ xôn xao trên phố. Người qua lại đông vui tấp nập.
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Phép hoán dụ đã được sử dụng rất đặc sắc trong câu thơ đầu , bởi “hoa đào” chính là tín hiệu cho mùa xuân. Sự xuất hiện của ông đồ “bên phố đông người qua” càng gợi lên sự đông đúc của đường phố trong những ngày Tết xưa. Trong nền cảnh đặc biệt như vậy, hình ảnh ông đồ càng trở nên nổi bật. Sự xuất hiện phó từ “lại” trong dòng thơ thứ hai chỉ sự tiếp diễn tương tự, sự lặp lại thường xuyên, nó là dấu hiệu cho thấy rằng gắn bó với sự xuất hiện của hoa đào, với sự đông đúc của phố phường,với không khí Tết tươi vui chính là hình ảnh ông đồ. Hơn nữa, tính từ “già” trong câu thơ vưa gợi tuổi tác, vừa gợi sự thân thuộc, trân trọng bởi với tác giả, ông đồ từ lâu đã gắn bó với mùa xuân qua bao năm tháng và đã trở thành biểu tượng cho một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta: xin chữ. Bên cạnh đó, hình ảnh ông đồ còn được khắc họa qua những vật dụng không thể thiếu như “mực tàu”, “giấy đỏ””, chính những màu mắc của các đồ vật ấy đã góp phần tô đậm cho sự rực rỡ, muôn hình muôn vẻ của mùa xuân. Hòa cùng với không khí náo nức, tấp nập của dòng người bên phố, với màu sắc của “mực”, của “giấy” là những lời “tấm tắc ngợi khen” của mọi người xung quanh:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.”
Lượng từ “bao nhiêu” thể hiện rằng hiện tại có rất nhiều người muốn xin chữ của ông đồ để treo trong nhà với ước mong năm mới may mắn, bình an và hạnh phúc. Giữa vòng người háo hức đón đợi, ông đồ như một nghệ sĩ say sưa sáng tạo, trổ hết tài năng, tâm huyết của mình thành những nét chữ mê hoặc lòng người: hình ảnh hoán dụ “hoa tay”, động từ “thảo” cùng phép so sánh “như phượng múa rồng bay” đã gợi nét chữ mềm mại, uyển chuyển, có hồn khiến mọi người phải tấm tắc, không ngớt lời ngợi khen. Từ đó, ta thấy rằng hình ảnh ông đồ đã trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh ngày Tết và được mọi người coi trọng vô cùng. Đặc biệt, hình ảnh ông đồ còn cho ta thấy một nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc: đó chính là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, được biểu hiện qua lối chơi chữ của ông đồ và tục xin chữ của người dân ngày Tết. Làm nên thành công của hai khổ thơ không chỉ là biện pháp tu từ hoán dụ, so sánh mà còn có giọng điệu ẩn chứa sự hân hoan, háo hức cùng một niềm trân trọng kín đáo, để lại dư âm sâu đậm về một thời vàng son đã qua. Tóm lại, hình ảnh ông đồ thời đắc ý trong hai khổ thơ đầu bài thơ “ ông đồ” đã cho chúng ta hiểu và trân trọng hơn một nét văn hóa quý báu của dân tộc ta: xin chữ ngày Tết.